Trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam đã có trường hợp một người xin ăn nhưng lại được phong giữ chức quan to trong triều đình. Đó là Phạm Ngũ Thư, quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, lộ Hải Đông (nay thuộc xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Ông là cháu ba đời của danh tướng Phạm Ngũ Lão, bậc đại công thần tài kiêm văn võ nổi tiếng của triều Trần.
Xuất thân trong gia đình gia thế nhưng Phạm Ngũ Thư sớm mồ côi, trước khi mất, thân phụ của ông đã gửi gắm người bạn đồng liêu là quan Thái bảo Trần Nguyên Hãng chăm sóc, dạy bảo, nâng đỡ con mình. Được sự ủy thác của bạn, quan Thái bảo đã dành nhiều quan tâm đến Phạm Ngũ Thư, nhờ vậy khi mới tròn 20 tuổi ông đã đỗ kỳ thi hội, rồi được bổ giữ chức Lĩnh úy huyện Mỹ Đức (nay là huyện Mỹ Đức, Hà Nội). Làm quan tận tụy, chăm lo giúp dân an cư lạc nghiệp nên mấy năm sau Phạm Ngũ Thư được thăng chức Chánh An phủ sứ trấn Thiên Hưng (nay là địa phận một số tỉnh Tây Bắc như: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La…).
Khi Hồ Quý Ly thao túng triều chính, ngày càng lộng quyền, đến năm Kỷ Mão (1399) thì bức tử vua Trần Thuận Tông và bộc lộ rõ hơn ý đồ chiếm đoạt ngôi, khiến quần thần nhiều người tức giận. Lúc đó, quan Thái bảo Trần Nguyên Hãng hợp mưu với tướng Trần Khát Chân và một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly trong hội thề ở núi Đốn Sơn (nay thuộc xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Tuy nhiên, sự việc bị bại lộ, hơn 370 người có liên quan bị Hồ Quý Ly giết, vợ con bị đày đọa, gia sản bị tịch thu sung công.
Tuy không dự mưu vào vụ này nhưng vì có quan hệ gần gũi với Trần Nguyên Hãng nên Phạm Ngũ Thư biết không thể tránh khỏi sự nghi ngờ của Hồ Quý Ly. Phần vì tránh họa, phần vì chán ngán chốn quan trường với cảnh tranh giành quyền lực, danh lợi nên sau nhiều đêm suy nghĩ, ông đã quyết định từ quan với lý do bị bệnh. Sau khi được chấp thuận, Phạm Ngũ Thư giấu hẳn tung tích, bí mật tìm lên Yên Tử, đến chùa Vân Yên xin yết kiến Vô Trước quốc sư và thuật rõ chuyện mình, thỉnh cầu xuất gia tu Phật và được đặt pháp danh là Trí Lâm.
Dù sống nơi cửa Thiền nhưng tình hình xã hội khi đó đã tác động nhiều đến tâm trí Phạm Ngũ Thư. Bấy giờ Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần lên làm vua được 1 năm thì nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, nhà Minh âm mưu chiếm nước ta bèn mượn cớ “phù Trần diệt Hồ” kéo sang xâm lược. Nhà Hồ bị lật đổ, dân chúng rơi vào ách đô hộ tàn bạo của ngoại bang phương Bắc. Một lần nữa Phạm Ngũ Thư lại trăn trở nghĩ suy và cuối cùng ông hoàn tục xuống núi để tìm cách cứu đời, mong muốn làm tròn nghĩa vụ của người trai thời loạn.
Trở về quê hương, do thúc ép của người thân, Phạm Ngũ Thư cưới vợ sinh được 3 người con. Trong thời gian đó, ông tích cực tham gia lực lượng kháng chiến chống quân Minh của nhà hậu Trần do Giản Định đế (Trần Ngỗi) rồi Trùng Quang đế (Trần Quý Khoáng) lãnh đạo. Mấy năm sau, nhà hậu Trần bị diệt khi cả hai vua đều tuẫn tiết vì nước do không kháng cự nổi sự đàn áp của giặc Minh. Phạm Ngũ Thư nghe tin Lê Lợi ở đất Lam Sơn dấy binh khởi nghĩa bèn tìm vào Thanh Hóa xin đầu quân, cùng nếm trải gian lao khó nhọc với nghĩa binh hơn 10 năm trời.
Để thăm dò sự điều động binh lực cũng như nắm tình hình của giặc, Phạm Ngũ Thư đề nghị và được Bình Định Vương Lê Lợi chấp thuận cho thiết lập “hệ thống tình báo” với nhiều đối tượng cài vào hàng ngũ ngụy quan, ngụy quân cũng như trong xã hội dưới các vai nhà buôn, học trò…
Trực tiếp điều hành mạng lưới thu thập thông tin, Phạm Ngũ Thư còn giả trang thành người xin ăn để đi lại khắp nơi mà giặc chẳng nghi ngờ. Cũng nhờ đó ông nhận thấy lợi thế của những người hành khất vì càng dơ dáy, cùi hủi, ghẻ lở thì lại càng được việc. Họ có thể “một gậy, một bị khắp nơi tung hoành”, “liều mạng cùi” xông bừa vào chỗ đóng quân, kho lương của địch để quan sát và la cà khắp nơi để chuyển tin nhanh chóng mà an toàn. Từ đó, Phạm Ngũ Thư tạo dựng thêm nhiều tai mắt trong giới cái bang. “Hệ thống tình báo” này hoạt động đắc lực, góp phần quan trọng vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập.
Lời bàn:
Theo các tài liệu còn lưu truyền đến ngày nay, có lần Phạm Ngũ Thư đã nói với vợ rằng: Thời lang thang lo việc nước, ta đã chung sống với giới ăn xin, cảm thông được nỗi đau thương, chua xót vô biên của những con người khốn khổ bị xã hội khinh khi, ruồng rẫy. Ta hằng phát nguyện sẽ chia sẻ, cứu giúp xoa dịu thương đau cho họ. Trước lúc ra đi về cõi vĩnh hằng, ông đã dặn vợ con rằng cần phải làm nhiều hơn nữa việc thiện, phát tâm giúp đỡ kẻ khó. Ông xứng đáng với danh xưng “Người ăn mày lỗi lạc” của vua Lê Lợi.
Và chính trong những tháng ngày tay chống gậy trúc, áo quần rách rưới, xin ăn sống qua ngày nay đây mai đó mà ông đã hiểu nỗi đau thương của những người cùng khổ rồi san sẻ, an ủi họ, lựa lời nhắc nhở họ về lý nghiệp báo, khuyên họ xả bỏ thù hằn, nghi kị, chán nản mà khơi nguồn cho niềm lạc quan và tình người tuôn chảy. Khi từ quan, ông lại về với những con người cùng khổ cho đến lúc cuối đời. Ngay cả trên bia mộ của mình ông chỉ cho khắc dòng chữ: Phạm khất sĩ chi mộ” (mộ của người ăn mày họ Phạm). Vâng, Phạm Ngũ Thư là một người như vậy, một con người có cuộc đời đặc biệt như là huyền thoại.
Theo Tapchivanhoc.com