Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Nguyễn Trung Ngạn có tên chữ là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là Ân Thi), tỉnh Hưng Yên. Ông từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, nổi tiếng thần đồng. Năm 15 tuổi, ông đỗ Hoàng giáp (cùng khoa với Mạc Đĩnh Chi) tại kỳ thi Hội năm 1304, niên hiệu Hưng Long thứ 12 triều vua Trần Anh Tông. Ông là một nhà chính trị, một đại thần có tài, được xếp vào hàng “Người phò tá có công lao tài đức đời Trần”, gồm: Nguyễn Trung Ngạn, Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Trần Thì Kiến, Phạm Tông Mại, Trần Nguyên Đán.
Thời nhà Trần, sau 3 lần kháng chiến chống Nguyên – Mông thắng lợi, quân dân Đại Việt bước vào giai đoạn khắc phục những hậu quả sau chiến tranh và xây dựng lại đất nước với khí thế của những người chiến thắng. Chế độ khoa cử và tầng lớp nho sĩ đã có điều kiện phát triển trở lại. Các triều vua Trần thường chú trọng nhiều hơn tới tài năng khi tuyển chọn người vào hàng ngũ quản lý của bộ máy nhà nước.
Sau khi Nguyễn Trung Ngạn thi đỗ Hoàng giáp và được triều đình nhà Trần trọng dụng, lần lượt được bổ giữ nhiều chức vụ trong bộ máy chính quyền Nhà nước. Trải qua 4 triều vua Trần, ông bắt đầu từ chức Gián quan (một chức quan trong Ngự sử đài) và kết thúc ở chức Đại hành khiển tước Thân quốc công trước khi qua đời. Năm 1314, sau khi lên ngôi, vua Trần Minh Tông sai ông và Phạm Mại sang triều đình nhà Nguyên đáp lễ. Đây là lần đầu tiên “tập dượt” trong công tác ngoại giao để 10 năm sau, năm 1324, ông đã có cơ hội “hạ gục” tính kiêu căng, ngạo mạn của sứ thần phương Bắc.
Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn ghi lại rằng: Năm 1324, vua nhà Nguyên là Thái Định Đế sai Mã Hợp Mưu, Dương Tông Thụy sang báo tin lên ngôi và trao cho một quyển lịch. Bọn Mưu đi ngựa đến tận đường ở cầu Tây Thấu Trì không xuống. Những người biết tiếng Hán, vâng lệnh tiếp chuyện, từ giờ Thìn đến giờ Ngọ, khí giận càng tăng. Vua sai Thị ngự sử Nguyễn Trung Ngạn ra đón. Trung Ngạn lấy lẽ bẻ lại, Hợp Mưu đuối lý, phải xuống ngựa bưng chiếu đi bộ. Vua rất hài lòng.
Tính ông cương trực, tài kim văn võ, có nhiều đóng góp cho công việc xây dựng và bảo vệ Đại Việt lúc bấy giờ. Ông là một nhà chính trị, một đại thần có tài, được sử gia Phan Huy Chú đánh giá là một trong 10 “người phò tá có công lao tài đức đời Trần”. Và cũng theo sử cũ, vào năm 1326, Nguyễn Trung Ngạn do sơ suất ghi Bảo Vũ Vương được ban tước Tạo Y thượng vị hầu (tước thượng vị hầu mặc áo đen) xếp vào hàng Tử Y (tước thượng vị hầu mặc áo tía), nhưng “vua thương ông có tài, vả lại cũng do lầm lỡ, không bắt tội nên đuổi ra làm An phủ sứ Thanh Hóa…
Tháng 3-1332, vua Trần Hiến Tông giao Nguyễn Trung Ngạn làm Nội mật viện phó sứ, giữ sổ sách ở nội sảnh cung Quan triều. Mùa thu, tháng 7, nhà vua lại giao Nguyễn Trung Ngạn làm Tri thẩm hình viện sự, kiêm An phủ sứ Thanh Hóa. Trung Ngạn lập Binh doãn đường xét xử ngục tụng. Không ai bị xử oan hoặc xử quá đáng.
Năm 1334, thượng hoàng Trần Minh Tông tuần thú đạo Nghệ An, thân chinh đi đánh Ai Lao. Lấy Nguyễn Trung Ngạn làm phát vận sứ Thanh Hóa, vận tải lương thực đi trước. Xa giá tới châu Kiềm, quân thanh lừng lẫy. Ai Lao nghe tin chạy trốn. Sai Trung Ngạn mài vách đá khắc chữ ghi công rồi về. Bài văn khắc ở núi Thành Nam, thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, nay vẫn còn. Năm 1335, ông được giao làm đến Đại hành khiển (ngang chức tể tướng). Năm 1337, vua Trần Hiến Tông “lấy Nguyễn Trung Ngạn làm An phủ sứ Nghệ An, kiêm Quốc sử viện giám tu quốc sử, hành Khoái châu lộ Tào vận sứ. Trung Ngạn kiến nghị lập Tào thương chứa thóc tô để chấn cấp dân bị đói. Xuống chiếu cho các lộ bắt chước thế mà làm”.
Phần lớn cuộc đời ông gắn liền với kinh thành Thăng Long, trong đó từ năm 1341 ông là Kinh sư Đại doãn (quan đứng đầu kinh thành). Dưới triều nhà Trần, người được xét chọn bổ nhiệm vào chức Kinh sư Đại doãn phải kinh qua An phủ sứ các lộ, qua các kỳ khảo duyệt, được cử làm An phủ sứ Thiên Trường (quê hương nhà Trần, nay thuộc tỉnh Nam Định), rồi phải “thử thách” làm việc ở Thẩm hình viện mới đủ tiêu chí.
Lời bàn:
Cả đương thời lẫn hậu thế, dưới nhiều góc độ, đều đánh giá Nguyễn Trung Ngạn là một tài năng lớn phát lộ từ rất trẻ. Và vì ông thi đỗ Hoàng giáp khi mới 15 tuổi nên người đương thời gọi ông là thần đồng. Tuy sử cũ không chép cụ thể ông đã làm những gì khi ở cương vị Kinh sư Đại doãn, nhưng ở Hà Nội hiện có tới 7 đền thờ ông. Chỉ riêng điều này đã đủ thấy nhân dân kinh thành tôn kính, ngưỡng mộ ông ra sao.
Trong 66 năm làm quan trải qua 5 đời vua triều Trần, ông chủ yếu gắn bó với mảnh đất kinh đô Thăng Long. Ở cương vị nào ông cũng làm việc cần mẫn, hết lòng vì vua, vì nước, vì dân. Và hậu thế ngày nay chỉ có thể khẳng định rằng, nếu không phải là người “trung quân, ái quốc”, không giàu lòng thương dân và sống liêm khiết thì Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn không bao giờ có được sự tín nhiệm, sức làm việc sáng tạo và kỳ diệu đến như vậy.
Theo Tapchivanhoc.com