Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trần Thì Kiến sinh năm 1260 và mất năm 1330. Quê ông ở làng Cự Xạ, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay là thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Ông từng là một trong những môn khách của Trần Hưng Đạo và được Trần Hưng Đạo tiến cử với vua Trần Nhân Tông, rồi được bổ nhiệm làm An phủ sứ phủ Thiên Trường, sau đó sang phủ Yên Ninh. Thời đó, chỉ những người được tin cậy đặc biệt mới được giữ chức An phủ sứ Thiên Trường, nơi các vua Trần cho xây một hành cung riêng và có thể sử dụng như kinh đô thứ hai khi cần thiết và chỉ những ai sau khi làm An phủ sứ Thiên Trường mới được thăng An phủ Đại kinh sư. Như vậy, Trần Thì Kiến đã được sự tin cậy đặc biệt của cả nhà vua và triều đình.
Theo sử sách, ông có sở trường về khoa đoán quẻ Kinh dịch. Trước khi diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, nhà vua sai Trần Thì Kiến bói, được quẻ Dự biến sang quẻ Chấn là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời đoán của ông. Mùa thu năm Trùng Hưng thứ hai, quân Nguyên vào cướp nước ta lần thứ ba, vua lại sai ông bói, và ông gieo được quẻ Quán biến sang quẻ Hoán, rồi đoán: “Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan”. Sau quân Nguyên đến sông Bạch Đằng và quả nhiên bị thất bại nặng nề phải tan chạy. Nhà vua khen tài của ông.
Về sau, Trần Thì Kiến được bổ dụng làm Kiểm pháp quan, kiêm chức Đại an phủ Kinh sư. Chức vụ Kiểm pháp quan của Trần Thì Kiến không phải ngẫu nhiên mà có. Trước hết, bởi tính thanh liêm hiếm có của ông. Làm pháp quan lo về việc xử án, hình luật mà cương trực, ngay thẳng, xét đúng người, đúng việc thì dân trăm họ được nhờ. Còn như bóp tròn thành méo, nói có thành không thì cái nạn hình ngục là hậu quả nhãn tiền mà dân phải gánh. Nói về đức tính thanh liêm của ông, chuyện xưa kể lại rằng, lúc đang làm An phủ sứ Thiên Trường, có người trong hương nơi ông trị nhậm đã nhân ngày gia đình có đám giỗ đem biếu ông mâm cỗ. Thấy vậy, Trần Thì Kiến liền hỏi vì cớ gì mà biếu. Người ấy trả lời là vì ở gần trị sở nên đem biếu chứ không có ý gì khác. Tuy nhiên, mấy ngày sau khi biếu mâm cỗ trong ngày giỗ ấy thì người kia lại có việc đến kêu xin, nhờ vả. Khi người ấy trình bày việc vừa dứt, quan Thì Kiến liền móc họng mửa ra, ý là trả cỗ hôm trước không nhận, làm cho kẻ kêu xin muối mặt mà về, từ đó không dám ho he nhờ cậy nữa.
Cũng bởi lối sống liêm khiết và chính trực của Trần Thì Kiến nên vua Anh Tông thăng ông làm Kiểm pháp quan. Mỗi khi có kiện tụng thì ông dùng lý lẽ mà bắt bẻ, việc đến thì tìm phương pháp để ứng phó. Người đời đều khen ông là giỏi xét đoán kiện tụng, lại có câu khen: Khả dĩ chiết ngục, nghĩa là: Trong cương vị một quan tòa có khả năng phân tích hết mọi lẽ rồi mới kết tội. Sử thần Ngô Sĩ Liên thời Lê khi nói về trường hợp của ông, cũng tấm tắc khen và viết rằng: Thì Kiến hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái tệ xin xỏ của người bấy giờ, cũng như Án Anh tằn tiện quá mức để uốn nắn cái thói xa xỉ tiếm lễ của Quản Trọng vậy.
Tháng 12 năm Mậu Tuất – 1298, vua Anh Tông lại bổ dụng Trần Thì Kiến là Nhập nội Hành khiển hữu gián nghị đại phu. Chức quan chuyên can gián các việc của triều đình, chỉ đứng sau Tể tướng. Cũng năm đó, nhà vua thấy Trần Thì Kiến là người cương trực nên ban cho cái hốt, trong đó có khắc bài minh ngự chế, ngợi khen ông là một pháp quan cương trực, thanh liêm hiếm có. Tuy vậy, trong đời quan lộ cũng có lúc Trần Thì Kiến gặp sóng gió. Đó là khi giữ chức Gián nghị đại phu, ông đã vô ý chứa giấu dân đinh nên bị bãi chức. Sau đó, nhà vua cho rằng không phải là cố ý nên ông được xóa tội và cho giữ chức Tham tri chính sự. Năm 1305, ông lại được vua cho giữ chức Tả bộc xạ – tể tướng.
Lời bàn:
Nguyên nhân dẫn đến chiến thắng vĩ đại của quân dân Đại Việt trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông là do vương triều nhà Trần thời đó đã có được chiến lược, chiến thuật đúng đắn và vô cùng sáng tạo trong cách đánh. Cùng với đó là nhà Trần đã có được các danh tướng thiên tài như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi. Đặc biệt là nhà Trần đã quy tụ được tất cả tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc cùng một lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương, đất nước. Trong khối đại đoàn kết toàn dân ấy, các quý tộc, vương hầu là hạt nhân và Trần Thì Kiến là một trong số đó.
Mặc dù giữ nhiều chức vụ khác nhau nhưng Trần Thì Kiến luôn chứng tỏ là người thanh liêm tận tụy, các vua quan đời sau đều coi ông là một tấm gương sáng để học tập. Với những đóng góp lớn lao trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên và tấm lòng tận trung với nước, liêm khiết, chính trực, Trần Thì Kiến đã được lưu danh sử sách. Vâng, lịch sử đã chứng minh, những người liêm khiết, chính trực, những tấm lòng vì nước, vì dân thì sẽ mãi mãi được người đời tôn vinh. Tiếc rằng, ngày nay vẫn còn có một số ít những người không noi gương tổ tiên, mà còn nhận tiền bố thí của ngoại bang, của những kẻ phản động ở nước ngoài rồi xúi giục dân chúng ở Hà Tĩnh làm chuyện hại dân hại nước: Gây rối trật tự công cộng, chống lại người thi hành công vụ, nói xấu chính quyền, ngăn chặn giao thông…
Theo Tapchivanhoc.com