Theo sách “Quảng Nam Đất nước và Nhân vật”, Lê Vĩnh Khanh tên chữ là Tử Minh, quê làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Năm Quý Mão – 1843, ông thi đậu giải nguyên nên thường gọi là Giải Khanh. Năm sau, ông đỗ phó bảng. Theo “Huỳnh Thúc Kháng tự truyện” thì Lê Vĩnh Khanh là người mở mối khoa cử cho quê hương, để từ đó nơi này xuất hiện nhiều nhà khoa bảng, sĩ phu danh tiếng.
Sau khi thi đỗ phó bảng, ông được bổ làm Tri huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, vì Lê Vĩnh Khanh làm quan rất thanh liêm nên bị đồng liêu ghen ghét. Tuần vũ Bình Định lúc đó tuy mới đỗ cử nhân nhưng nhờ thế lực và lo lót mà tót lên chức Tuần vũ nên rất cay cú với ông, bởi ông chỉ là Tri huyện nhưng đỗ đến phó bảng. Tương truyền, lúc đó huyện Phù Cát bị mất mùa, nhân dân đói kém, khắp nơi trộm cướp nổi lên. Đang lúc rối rắm, ông lại nhận lệnh triều đình phải theo sứ bộ cùng Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ sang Pháp chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ. Ông từ chối không đi thì viên Tuần vũ vốn sẵn có tư hiềm với ông, liền lén tâu về triều cho rằng ông bất tuân lệnh vua.
Triều đình Tự Đức triệu ông về kinh, buộc ông giải trình về 4 tội: Để cho dân trong huyện bị đói; trộm cướp sinh nhiều; thuế khóa bị chậm trễ; từ chối việc đi sứ sang phương Tây. Được lệnh, ông không về Huế ngay, mà thảo một tờ sớ gửi đi theo đúng thủ tục hành chính. Có điều, khác với lệ thường, trong văn bản, ông chỉ xưng danh mà không xưng “thần” như quy định, với nội dung như sau: Sở dĩ, dân đói là do mất mùa, mà mất mùa là do thiên tai. Mất mùa, dân thiếu ăn mà triều đình không cho chẩn cấp, nên sinh ra trộm cướp. Dân đang đói thì làm sao có tiền để nộp thuế cho đúng kỳ hạn. Còn việc đi sứ sang phương Tây, thì điều trước hết phải biết tiếng Tây. Qua xứ người mà không biết tiếng nước người thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Điều đặc biệt trong bản sớ này là sau mỗi câu trả lời, ông đều ghi 4 chữ “Khanh hà tội yên”, nghĩa là “Khanh này có tội gì chứ”.
Cuộc đời làm quan của Lê Vĩnh Khanh thanh liêm và công chính nên được dân chúng kính trọng. Mùng 2 tháng giêng năm 1884, ông bị bệnh, mất tại nhiệm sở và thi hài ông được an táng tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Sau đó gia đình di dời về cải táng tại chân đồi Rừng Lớn, thuộc thôn 2, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Con cháu ông sau này phần lớn đều tham gia phong trào Duy Tân, Quang Phục hội ở Quảng Nam. Các con ông là Lê Vĩnh Huy, Lê Quý Liên tích cực tham gia phong trào Đông Du. Đặc biệt là Lê Vĩnh Huy – nhà nho có cái nhìn sâu rộng và bao quát về thời cuộc, tích cực tham gia các phong trào yêu nước, phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào những năm đầu thế kỷ XX và đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân năm 1916.
Các cháu nội ông là Lê Triêm, Lê Duyện… được sang Nhật du học 2 năm, gặp lúc Pháp cấu kết với Chính phủ Nhật trục xuất du học sinh Việt Nam ra khỏi Nhật nên họ phải về nước. Năm 1916, Lê Triêm khởi nghĩa tại Tiên Phước, cùng với Trần Huỳnh đem quân tiến đánh đồn Trà My, rồi kéo xuống Tam Kỳ bắt Tri phủ Tạ Thúc Xuyên. Cuộc khởi nghĩa thất bại là do kế hoạch bị bại lộ. Sau đó, cả gia đình Lê Vĩnh Huy đã bị thực dân Pháp vây bắt và đưa đi lưu đày.
Cho đến ngày nay, người dân Tiên Phước còn truyền tụng tinh thần yêu nước của gia đình danh nhân Lê Vĩnh Khanh. Vinh danh những đóng góp cho dân, cho nước của Lê Vĩnh Khanh và con là Lê Vĩnh Huy, năm 2005, UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng di tích lịch sử đối với 2 ngôi mộ của 2 cha con ông. Đến tháng 11-2011, theo nguyện vọng của Hội đồng gia tộc Lê Tiên Phước, UBND tỉnh Quảng Nam cho di dời mộ Lê Vĩnh Khanh về đội 1, thôn 1, xã Tiên Cảnh, để đảm bảo thuận tiện việc quản lý, trùng tu, bảo tồn, phát huy giá trị di tích.
Lời bàn:
Quảng Nam là vùng đất địa linh, nhân kiệt. Trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Quảng Nam đã đi đầu, lập công ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân đến vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quảng Nam “trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ”, lập được nhiều chiến công và đóng góp những bài học kinh nghiệm đánh Mỹ. Nơi đây đã sinh ra nhiều chí sĩ có tinh thần yêu nước vô bờ bến, với nếp sống thanh cao, giản dị, vì nước, vì dân đó là Nguyễn Tri Phương, Lê Vĩnh Khanh, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng…
Với danh nhân Lê Vĩnh Khanh, ông là tấm gương sáng về tinh thần hiếu học, ham hiểu biết của người dân xứ Quảng nói chung, người dân Tiên Phước nói riêng. Ông là bậc đại khoa không màng công danh, một mực yêu nước, thương dân, chỉ mưu cầu độc lập, dân quyền. Tuy làm quan hưởng bổng lộc của triều đình nhưng trong ông muốn thoát khỏi sự ràng buộc khắt khe của luật lệ phong kiến, muốn cho nhân dân no ấm, thoát khỏi sưu cao, thuế nặng của chế độ phong kiến đương thời. Vì vậy, cuộc đời và sự nghiệp của ông sống mãi với người dân đất Quảng nói riêng và Việt Nam nói chung.
Theo Tapchivanhoc.com