Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, vua Trần Minh Tông có tên húy là Mạnh, được vua cha là Trần Anh Tông truyền ngôi vào năm 1314. Ông ở ngôi vua 15 năm, rồi nhường ngôi cho con là thái tử Vượng (tức vua Trần Hiến Tông sau này) vào năm 1329 để làm thái thượng hoàng 28 năm. Ông mất ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu (1357), thọ 58 tuổi.
1 năm sau ngày lên ngôi, tháng 5-1315, Trần Minh Tông ra lệnh cấm cha con, vợ chồng và gia nhân kiện tụng nhau. Theo Ngô Sĩ Liên, quyết định này xuất phát từ sự trân trọng của ông đối với tổ tiên, cha mẹ và người thân. Nhà Trần ở thời đầu trao rất nhiều quyền lực chính trị, xã hội cho các tôn thất hoàng gia. Các tôn thất như Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư… đóng vai trò rất lớn trong việc lãnh đạo quân dân đánh bại quân Nguyên xâm lược các năm 1285, 1287-1288.
Tuy nhiên, đến thời vua Anh Tông và đỉnh điểm là Minh Tông, thế hệ tôn thất, công thần này suy giảm do già, thế hệ sau họ không có nhiều hứng thú đối với việc chính sự. Do vậy, hoàng đế Minh Tông lệ thuộc nhiều hơn vào các văn sĩ nho học xuất thân bình dân, có học thức và đỗ các kỳ thi quốc gia. Ông cất nhắc hàng loạt văn thần có tài như Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Bùi Mộc Đạc, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu… vào những chức vụ lớn.
Mặc dù vậy, song ông sử dụng các nho sĩ vì năng lực và lòng trung thành của họ; đồng thời, không để những người này vượt qua khuôn phép nhà nước. Ví như Trương Hán Siêu khi làm Hành khiển từng bị phạt 300 quan tiền vì ỷ được vua tin yêu, vu cáo hình quan Phạm Ngộ, Lê Duy ăn đút lót. Ông cũng từng bác bỏ đề xuất của một số Nho thần nhằm thay đổi chế độ chính trị, xã hội cho giống với Trung Quốc. Đối với người tôn thất không có tài như Bảo Vũ vương, nhà vua rất yêu mến, nhưng không vì vậy mà cho làm chức lớn.
Chính vì thế, ông được sử cũ khen ngợi là hoàng đế anh minh, trọng dụng các quan viên có năng lực như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, Phạm Sư Mạnh… Đồng thời, ông là người dùng luật nghiêm minh và duy trì sự hưng thịnh về kinh tế, xã hội của đất nước. Bình sinh, thượng hoàng Trần Minh Tông thường hay lấy gương tốt, xấu của bề tôi các đời vua trước và lấy ngay nếp sống thanh đạm của chính mình để dạy các vị hoàng tử. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” có đoạn chép về việc này như sau:
Sau khi đã nhường ngôi, thượng hoàng lui về ở hành cung phủ Thiên Trường, mỗi khi các hoàng tử vào chầu, thượng hoàng thường bình luận đến nhân vật bản triều. Một lần, Uy Túc Vương Văn Bích nói: Phàm bình luận nhân vật để dạy hoàng tử, chỉ nên nói đến việc của người hay, còn việc người dở, hãy gạt bỏ đi, không nên nói để cho người nghe bắt chước.
Nghe vậy, thượng hoàng nói: Việc làm của kẻ hay, người dở đều nên bàn đến cả, không thể gác bỏ, thiên lệch được. Nếu con ta quả là người hiền thì nghe việc hay tất nghe mà bắt chước, nghe việc dở tất ghét mà tránh đi. Thế thì kẻ hay, người dở đều có thể làm gương cả. Nếu con ta quả không hiền thì cứ gì phải thấy việc dở rồi sau mới bắt chước. Cứ xem như Thái Khang (vua thất đức của nhà Hạ, sau bị Hậu Nghệ đuổi đi) là kẻ hôn quân, thì có phải vì ông vua đời trước luông tuồng mà Thái Khang bắt chước đâu? Dưỡng Đế nhà Tùy, miệng nói việc của Nghiêu, Thuấn mà làm thì bạo ngược hơn Kiệt, Trụ, thế có phải thấy người hay mà bắt chước được đâu? Uy Túc Vương nghe vậy vội vàng cúi đầu tạ tội.
Một hôm, thượng hoàng mời Huệ Túc Vương là Đại Niên vào tẩm điện (nơi ăn ngủ của vua) và bảo ngồi chơi. Hôm đó, thượng hoàng ăn cơm chay. Huệ Túc Vương vốn tính hay bài bác đạo Phật và đạo Lão, nhân đó đã nói rằng: Thần không biết ăn chay có lợi ích gì? Nghe vậy, thượng hoàng dụ bảo rằng: Ông cha ngày trước ăn chay nên ta cũng bắt chước, còn như bảo rằng ăn chay có ích lợi hay không thì ta không biết. Huệ Túc Vương lặng lẽ lui ra.
Lời bàn:
Dạy con, trước phải hiểu con. Nếu không phải là bậc hiền nhân quân tử thì không thể bạo dạn đem hết việc hay, dở của người xưa ra bàn với con. Và với Minh Tông, đã bàn thì phải tin ở người nghe. Còn với Uy Túc Vương Văn Bích tuy cũng là bậc vương giả mà thiếu hẳn niềm tin ở các bậc vương giả. Với Huệ Túc Vương thì lại bài bác việc ăn chay không đúng lúc, cũng không phải thời và cũng không đúng nơi, cũng chẳng đúng đối tượng. Bởi ngày ấy Phật giáo được coi là quốc giáo, ăn chay là việc thường tình của người theo đạo Phật. Vì thế, việc bài bác xã hội ăn chay cũng là xúc phạm quốc giáo và hậu quả của việc làm dại dột này thật khó mà lường trước được.
Giữ gìn gia phong và làm theo gia huấn của tổ tiên là một trong những sứ mệnh trọng đại trong việc xây dựng gia đình hưng thịnh của người xưa. Thời cổ đại, ngay cả những người nông dân áo vải, dù không có của cải để lại nhưng nhất định không thể lơ là việc dạy con và lập gia huấn truyền cho con cháu đời sau. Bởi vì, trẻ lớn lên cho dù là người tài năng xuất chúng nhưng nếu thiếu giáo dưỡng thì cũng khó thành công trong cuộc đời. Vậy nên, phép dạy người của thượng hoàng Minh Tông quả đáng ghi vào sử sách.
Theo Tapchivanhoc.com