Gương sáng muôn đời

Nguyễn Bá Lân là nhà thơ và là quan đại thần trong triều đình nhà Lê trung hưng, dưới thời vua Lê Hiển Tông trị vì. Ông cùng với Đoàn Trác Luân (anh trai nữ sĩ Đoàn Thị Điểm), Ngô Tuấn Cảnh và Nguyễn Tông Quai được người đương thời xưng tặng là Trường An tứ hổ hay Trường An tứ tài.

Nguyễn Bá Lân sinh năm Canh Thìn (1700), tại xã Cổ Đô, huyện Tiên Phong (cũ), trấn Sơn Tây ngày xưa (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Quê tổ ba đời của ông ở làng Hoài Bão, huyện Tiên Du, trấn Kinh Bắc, sau vì thích phong thủy của làng Cổ Đô nên mới dời đến định cư ở đây.

Thân sinh của ông là Nguyễn Công Hoàn, người nổi tiếng một thời về văn chương, được xếp hàng thứ ba trong “tứ hổ” ở kinh thành Thăng Long xưa. Tuy học giỏi, nhưng ông Hoàn lại lận đận về đường khoa cử và không đỗ đạt gì, chỉ chuyên nghề dạy học. Các chức tước của ông như Đại lý tự thừa, Hiển cung đại phu, Đông các đại học sĩ, Kim tử vinh lộc đại phu, Hàn lâm viện thừa chỉ… đều do có con là Nguyễn Bá Lân được thăng chức lớn nên cha cũng được nhà vua phong tặng theo lệ xưa.

Nguyễn Bá Lân học với cha từ năm 15 tuổi, được cha rèn cặp rất nghiêm khắc. Cách dạy con của ông đồ Hoàn khá đặc biệt, không chuộng nhồi nhét bắt học nhiều như các thầy đồ khác, mà có sự chọn lọc trên cơ sở cuộc đời dạy học của bản thân mình. Từ khi còn ít tuổi, Nguyễn Bá Lân vốn rất ham đọc sách và ham tìm hiểu thế giới bên ngoài. Thường ngày, trên án của ông lúc nào bên trái cũng đặt bản đồ, bên phải đặt sách vở, để khi đọc sách nếu cần thì tra cứu.

Xem thêm:  Thuyết minh về chiếc áo dài Việt Nam

Cách dạy học độc đáo của cha Nguyễn Bá Lân là tìm cách phát huy tính năng động, sáng tạo, bồi dưỡng óc thông minh nhanh nhạy của học trò trên một tinh thần thi đua bình đẳng với nhau, nếu con mình bị thua thì cũng đòi hỏi được xử trí công bằng, không chút phân biệt. Được cha trực tiếp dạy dỗ một cách chu đáo, lại vốn có tư chất thông minh, Nguyễn Bá Lân tiến bộ rất nhanh. Năm 18 tuổi, tức là chỉ ba năm sau khi học với cha, ông đã đỗ đầu kỳ thi Hương, để hai năm sau lại đỗ kỳ thi Hội, rồi kỳ thi Đình, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Tân Hợi (1731), vào lúc ông 31 tuổi.

Nguyễn Bá Lân bước vào đường làm quan cũng khá đặc biệt. Đỗ tiến sĩ, chỉ một thời gian sau ông đã được cử làm giám khảo kỳ thi Hội. Để rồi sau đó, do có nhiều công lao và lại là người cẩn thận, siêng năng, thanh liêm, ngay thẳng, không xu nịnh, ông nhanh chóng được thăng nhiều chức, cả văn lẫn võ. Từ chức Phiên tào ở phủ chúa Trịnh Giang, đến đầu đời Cảnh Hưng (1740-1786) đã làm Tả chấp pháp ở bộ Hình. Năm 1744, ông được bổ làm lưu thủ trấn Hưng Hóa, sau làm đốc trấn Cao Bằng. Tại hai nhiệm sở trên, ông đều có công lớn trong việc giữ gìn trật tự trị an trên vùng biên giới.

Năm 1756, ông được triệu về kinh đô Thăng Long nhận chức Thiêm đô ngự sử, vào phủ Chúa giữ chức Bồi tụng, tước Lễ Trạch hầu, kiêm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám (Hiệu trưởng). Năm 1765, ông về nghỉ mới được ít lâu đã được chúa Trịnh Doanh mời ra giúp việc từ tụng, xét xử án từ. Đến năm 1770, ông dâng tấu xin về hưu vì tuổi già, nhưng chúa Trịnh Sâm không chuẩn y mà vẫn giữ ông lại kinh đô để hỏi ý kiến khi cần thiết.

Sau đó, ông được khôi phục làm Thượng thư bộ Lễ, rồi Thượng thư bộ Hộ, hàm Thiếu bảo, được liệt vào bậc Ngũ lão hầu. Chúa Trịnh Tông còn triệu ông vào phủ để hỏi việc nước lúc ông đã 84 tuổi. Hai năm sau ông mất, thọ 86 tuổi, linh cữu được rước về an táng ở quê nhà. Sau khi mất, ông được triều đình truy tặng chức Thái tể, tước Quận công.

Lời bàn:

Nguyễn Bá Lân trọn đời mang hết tài năng và đức hạnh của mình ra giúp dân, giúp nước trên mọi cương vị. Ông là người văn võ song toàn, văn hóa – giáo dục uyên bác. Vì vậy, ông được nhiều danh nhân đương thời khen ngợi bằng những lời trân trọng nhất. Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có đoạn Phan Huy Chú nhận xét về ông như sau: Ông nổi tiếng trong sạch, cẩn thận… Khi làm tả chấp pháp, ông giữ công bình, không a dua. Gặp lúc bốn phương nhiều việc, ông được ra chốn biên trấn, vỗ về dân chúng, dẹp yên bọn cướp, mấy lần tỏ rõ công lao… Lúc về làm thiêm đô ngự sử và bồi tụng, khi bàn việc, ông giữ lòng trung thực, không che chở bênh vực ai, chúa khen là người ngay, dám nói thẳng.

Xem thêm:  Trình bày ý kiến của anh chị về quan niệm chọn nghề nghiệp trong tương lai

Không những có tài giúp dân, giúp nước, Nguyễn Bá Lân còn có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp văn chương của nước nhà. Về phú, ông có nhiều bài viết bằng chữ Nôm và chữ Hán còn được lưu truyền đến ngày nay, như: Giai cảnh hứng tình, Dịch đình dương xa, Trương Hàn tư thuần lư… Nguyễn Bá Lân còn có một số bài thơ vịnh sử được tuyển vào cuốn Vịnh sử thi quyển, Quốc âm thi và Mao thi ngâm vịnh thực lục. Một người con làm cha mẹ, dòng tộc và một công dân làm rạng danh đất nước, như vậy với Nguyễn Bá Lân, cuộc đời và sự nghiệp của ông chẳng những còn sống mãi với dân tộc Việt Nam, mà còn là tấm gương sáng để hậu thế muôn đời noi theo.

Theo Tapchivanhoc.com

Check Also

anh hot girl nu sinh ca tinh 310x165 - Tổ quốc trên hết

Tổ quốc trên hết

Theo sách “Danh nhân đất Quảng”, năm 1916, bà Hoàng Thị Tòng từ Hàng Châu …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *