Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Công bộ Tả thị lang Giang Văn Minh có tên chữ là Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, ông làm quan nhà Lê Trung hưng. Ông được mệnh danh là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (không để nhục mệnh vua) vì đã đối đáp thẳng thắn trước triều đình nhà Minh và bị vua nhà Minh khi đó là Tư Tông hành hình vào năm 1638, thọ 65 tuổi.
Ông sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Khoa thi này không có ai đỗ trạng nguyên hay bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi. Sau khi đỗ đạt, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631)…
Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Trong chuyến đi này, ngoài giai thoại về việc đối đáp nổi tiếng của sứ thần Giang Văn Minh với vua nhà Minh, ông còn được người đương thời cho rằng đã đấu tranh với nhà Minh đòi bỏ lệ cống người vàng hàng năm. Theo các tài liệu lưu truyền đến ngày nay, vào thời Lê, ngoài các phương vật, trong danh sách cống nạp hàng năm, Đại Việt phải mang cống triều đình Trung Hoa một tượng người bằng vàng. Người vàng này là do nhà Minh bắt buộc cống nạp để đền cho mạng viên tướng Kiêu Liễu Thăng mà quân Lê Lợi đã chém bay đầu vào năm 1427.
Trong cuốn sách “Các sứ thần Việt Nam” cho biết: Chuyện kể rằng vào ngày khánh thọ của vua Minh, hoàng đế nhà Minh rất bất bình bởi sứ giả các nước đã tề tựu đông đủ mà sứ thần Việt Nam thì không thấy đâu. Vua nhà Minh liền truyền cho thị vệ đến nhà công quán hỏi nguyên do.
Khi đến nơi, bọn lính thấy sứ thần Giang Văn Minh đang nằm trên giường ôm mặt khóc. Chúng bắt buộc ông phải vào triều. Trả lời câu hỏi của vua Minh rằng vì sao không vào triều, Giang Văn Minh nghẹn ngào nói:
– Thần tự biết vắng hôm nay là phạm vào trọng tội, xin hoàng đế lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần đi sứ xa quê, nhà cửa cố hương vốn neo đơn, ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ!
Nói xong ông lại ôm mặt khóc ầm lên. Hoàng đế nhà Minh thấy vậy liền bật cười mà nói rằng:
– Tưởng sao chứ như thế thì việc gì ngươi phải khóc! Khá khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì phải băn khoăn cho lắm. Người khuất đã xa đến mấy đời thì cũng có thể “miễn nghị”.
Ngay lúc đó, đột nhiên Giang Văn Minh ngừng khóc rồi đứng dậy lau nước mắt và ngẩng đầu lên mà nói rằng:
– Muôn tâu, lời dạy của hoàng đế thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời có lắm chuyện xa xôi mà vẫn không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam phải cống người vàng để trả nợ Liễu Thăng cách đây hàng 200 năm. Nay được lời hoàng đế ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với ngày khánh tiết này. Cúi xin hoàng đế từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu.
Nghe xong, vua nhà Minh biết được là mình đã bị mắc lừa sứ thần nước Nam, nhưng lời đã nói ra cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” mà gật đầu ra lệnh cho bãi bỏ lệ cống người vàng.
Lời bàn:
Cứ theo nội dung của giai thoại trên thì những hành động cùng với lập luận vô cùng sắc bén, lôgic của Chánh sứ Đại Việt Giang Văn Minh đã làm cho cả vua lẫn quan ở “Thiên triều” khi đó phải khâm phục và kính nể ông trước đông đảo các sứ thần nhiều nước lân bang đang triều kiến. Trước hết, đây là lý lẽ chuẩn xác, phù hợp với thực tế cuộc sống cũng như lẽ đời. Và quan trọng hơn là trước mặt “Thiên triều”, sứ thần Đại Việt đã dám nhắc lại chuyện không đáng làm của một nước lớn khi đã thua trận một nước nhỏ. Cũng chính vì khiếp đảm trước tài ứng đối và trí thông minh của sứ thần Đại Việt, rồi lấy cớ sứ thần Đại Việt “làm nhục thiên triều”, vua Minh bất chấp luật lệ bang giao đã sai người giết ông. Hôm đó nhằm ngày mồng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639).
Và mặc dù nghĩa vụ đi sứ dở dang nhưng đoàn sứ bộ do Thám hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đã tỏ rõ khí phách hiên ngang của người dân Đại Việt không khuất phục trước ách đô hộ của Trung Quốc. Cảm phục một sứ thần tài trí, dũng cảm, không chịu khuất phục trước uy vũ kẻ thù để bảo vệ danh dự của Tổ quốc, vua Lê Thần Tông đã ban tặng khi đến bái kiến linh cữu ông đôi câu đối rằng: Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng. Và chỉ riêng với lời này cũng đã là quá đủ để hậu thế phải kính cẩn nghiêng mình trước bản lĩnh của nhà ngoại giao kiệt xuất của nước Đại Việt ở thế kỷ XVII.
Theo Tapchivanhoc.com