[Văn mẫu tuyển chọn] Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Phân tích “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
– Khái quát chung
2. Thân bài:
* Khái quát:
– Hoàng Phủ Ngọc Tường là tác giả của những áng văn thơ nổi tiếng về những dòng sông, bởi vậy cách mà ông viết về mỗi dòng sông cũng thật độc đáo và tài hoa.
* Phân tích:
– “chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”
– Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính.
+ “một bản trường ca của rừng già” .
=> Sông Hương hiện lên với muôn vàn những sắc thái đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”…
– Sông Hương dịu dàng, đằm thắm khi trôi qua những dặm dài đỏ thắm của hoa đỗ quyên rừng, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn.
– “như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong sáng
=> sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say.
=> nhanh chóng tạo cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”
=> “rừng già đã hun đúc cho nó một bản tính gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”
=>“dịu dàng và trí tuệ” rồi vô tình “trở thành người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở, vùng văn hóa của 4000 năm văn hiến
– Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách nhưng cũng không kém phần kì lạ và bí ẩn.
+ Toàn bộ cuộc hành trình của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình yêu.
+ Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc đến sông Hương như một “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”.
+ Giờ đây sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”.
+ Ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng đột ngột”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cong thật tròn… ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”.
– Khi thoát ra khỏi những vực sâu:
+ Những núi đồi “sừng sững như thành quách”, những “đám quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
– Cuối cùng sông Hương cũng đến được với thành phố thân yêu của mình:
+ Sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc” khi vào đến thành Huế.
+ Dòng sông “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông xuân sắc vui tươi.
+ Khi nhìn thấy chiếc cầu nhỏ nhắn của thành phố in trên nền trời “nhỏ nhắn như những vành trăng non” thì dường như dòng sông thêm dạt dào xúc động
+ “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”, “đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”
– Dòng sông được liên tưởng để so sánh với các dòng sông trên thế giới: Sông Xen chảy vào thành phố Pari, Sông Đa – nuýp chảy vào thành phố Bu – đa –pét…
– Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm”, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.
– Chất nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ
– Cuối cùng sông Hương vẫn phải tạm biệt thành phố Huế.
3. Kết bài:
– Khẳng định lại vấn đề nghị luận
– Cảm nhận cá nhân
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông
Bài văn tham khảo
“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió chiều vương áo nàng thôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”
Ai đã từng đến với xứ Huế mộng mơ chắc hẳn không thể nào quên đi hình ảnh núi Ngự sông Hương với dư âm ngọt ngào, lắng đọng. Tạo hóa đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây những nét đẹp thật nên thơ. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã trân trọng vẻ đẹp nên họa nên thơ của sông Hương qua bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là tác giả của những áng văn thơ nổi tiếng về những dòng sông, bởi vậy cách mà ông viết về mỗi dòng sông cũng thật độc đáo và tài hoa. Đến với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhà văn không ví sông Hương “như một mạch máu lớn nuôi sống thủ đô” như cái cách mà ông đã đứng lặng hàng giờ trước bờ đê sông Hồng mà ngẫm ra. Thay vào đó là một phát hiện độc đáo vô cùng “chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất” . Nhắc đến sông Hương xứ Huế, người ta thường có ấn tượng về sự phẳng lặng, êm đềm của dòng sông trong khung cảnh thanh bình yên ả của xứ Huế. Ông đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện những cảm hứng khám phá sâu sắc về cội nguồn.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính. Trước hết nó là “một bản trường ca của rừng già” . Cái tên ấy gắn liền với nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ mang theo tất cả vẻ đẹp hùng tráng lẫn trữ tình. “Trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông chẳng thế mà lối viết “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn. Sông Hương hiện lên với muôn vàn những sắc thái đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”… Hàng loạt những động từ mạnh “rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy” cùng xuất hiện trong một câu văn đã đem đến cho sông Hương một sức sống mãnh liệt. Song hành cùng những động từ mạnh là hình ảnh nhân hóa kết hợp so sánh kì thú “là một bản ca của rừng già”, “ cuộn xoáy như cơn lốc”…đã góp phần tạo nên nhịp thở dồn dập của sông Hương ở thượng nguồn.
Cũng có lúc sông Hương rất đỗi dịu dàng, đằm thắm khi trôi qua những dặm dài đỏ thắm của hoa đỗ quyên rừng, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn. Câu văn dài được chia thành nhiều vế liên tục làm hiện lên dư vang của một bản trường ca của rừng già, biện pháp điệp cấu trúc kết hợp cùng các động từ mạnh tự nó tạo nên âm hưởng mạnh mẽ của sông Hương.
Tác giả ví sông Hương “như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong sáng”, cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do lang thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến Huế– sự dịu dàng như một cái bến bình yên người ta thường mong sau những thác ghềnh bão táp. Từ những hình ảnh so sánh, liên tưởng, nhân hóa, những câu văn mang tính chất giải thích “rừng già đã hun đúc cho nó một bản tính gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp sức sống mãnh liệt hoang dại đầy cá tính của sông Hương vùng thượng lưu. Và rồi khi ra khỏi rừng, tính cách của con sông bỗng nhiên thay đổi. Dường như nó đã thoát ra khỏi sự chế ngự của rừng già Trường Sơn để mang cho mình một vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ” rồi vô tình “trở thành người mẹ phù sa” của một vùng văn hóa xứ sở, vùng văn hóa của 4000 năm văn hiến. Sông Hương như một đấng sinh thành đã góp phần tạo nên bản sắc của một vùng xứ sở. Chẳng những thế mà sông Hương cũng như một người mẹ mẹ với vùng văn hóa xứ Huế, từng ngày từng giờ dòng sông vươn mình chảy ra thì cũng là từng ngày từng giờ sông Hương duy trì và bồi đắp phù sa trong một vùng văn hóa đã hình thành từ hai bên sông. Ấy thế nhưng dòng sông không muốn bộc lộ công lao to lớn ấy, nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến cho dải đất nơi đây qua nhiều thế kỉ. Đây chính là chiều sâu của vẻ đẹp mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn nhắc đến.
Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách nhưng cũng không kém phần kì lạ và bí ẩn. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình yêu. Đây là cuộc kiếm tìm bền bỉ, đầy hào hoa, rất lãng mạn, đắm say. Trong hành trình này, SH đã hiện lên mang theo tất cả vẻ đẹp cuốn hút của mình và dành tặng cho Huế những gì đẹp nhất.
Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc đến sông Hương như một “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng”. Dòng sông đi giữa cánh đồng hương hoa bát ngát thật êm đềm và lãng mạn để rồi sau một giấc ngủ dài nó trỗi dậy một sức sống mới đầy khao khát. Giờ đây sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng đột ngột”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cong thật tròn… ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”. Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ tính trong những khúc lượn vòng mềm mại. Sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh thẳm”; sông Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên “mềm như một tấm lụa”, lấy ánh phản quang của những ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để rực rỡ, kiêu sa ; thấm vào lòng mình vẻ đẹp “u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm mặc… như triết lý, như cổ thi” và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Van Niên đồ sộ.
Khi thoát ra khỏi những vực sâu, những núi đồi “sừng sững như thành quách”, những “đám quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Cuối cùng sông Hương cũng đến được với thành phố thân yêu của mình. Dưới con mắt của hội họa, sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng với những màu sắc hài hòa và bình dị.
Sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc” khi vào đến thành Huế. Dòng sông “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông xuân sắc vui tươi. Cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi tìm về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.
Khi nhìn thấy chiếc cầu nhỏ nhắn của thành phố in trên nền trời “nhỏ nhắn như những vành trăng non” thì dường như dòng sông thêm dạt dào xúc động. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến qua hình ảnh “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”, “đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế.
Dòng sông được liên tưởng để so sánh với các dòng sông trên thế giới: Sông Xen chảy vào thành phố Pari, Sông Đa – nuýp chảy vào thành phố Bu – đa –pét…
Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm”, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.
Chất nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ – một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng, được tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, bởi sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian.Tác giả tiếp tục viết “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ. Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc vủa “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới “nền âm nhạc cổ điển Huế”
Cuối cùng sông Hương vẫn phải tạm biệt thành phố Huế. Hương giang tỏ vẻ lưu luyến với thành phố Huế nên vừa ra khỏi kinh thành, dòng sông đột ngột chếch lên hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến, ra đi “giữa màu xanh biếc của tre trúc” nơi ngoại ô Vĩ Dạ để gặp lại thành phố lần cuối ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường khúc ngoặt ấy như là “một chút lẳng lơ kín đáo” trong tình yêu đôi lứa như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói lại một lời thề trước khi đi xa.
Thời gian có thể trôi đi nhưng vẻ đẹp của sông Hương thì vẫn còn mãi. Đọc bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” ta càng biết yêu thêm những dáng núi hình sông trên dải đất quê mình.
Lê Thị Thư