Đề tài: Phân tích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm
Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trên văn đàn văn học Việt Nam. Người ta ngưỡng mộ ông khi chỉ cái tài mà họ còn ngưỡng mộ bởi cái tâm trong sáng, cái tâm biết yêu thương và trân trọng con người. Ông ra đi nhưng đã để lại cho chúng ta một tác phẩm truyện hay là Lục Vân Tiên. Đặc biệt trong tác phẩm này đoạn trích “Lẽ ghét thương” nổi bật lên những đạo lí về lẽ ghét thương trên đời. Lẽ ghét thương ấy được nhìn qua cái nhìn của ông Quán.
Đoạn trích Lẽ ghét thương từ câu 473 đến 504 kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ tuổi trẻ. Lục Vân Tiên cùng bạn là Vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cùng là các sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài nghệ cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực gian lận. Ông Quán nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.
Đồng ông Quán cũng thể hiện khá trực tiếp và phê phán luôn lẽ ghét thương của mình trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu xa. Đó chính là việc tầm phào mà ông Quán ghét. ông Quán là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ông Ngư, ông Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác giả.
Bốn câu thơ đầu là lời của ông Quán khi chứng kiến bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đã thua lại còn nói sai lời khiến cho ông phải bật lên những bất bình của mình bằng cách thể hiện lẽ ghét thương trong đời:
“Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Ông Quán cũng là một tri thức nhưng về mai danh ẩn tích với cái nghề bán quán này. Cũng có một thời vàng son dùi mài kinh sử Như Vân Tiên và mấy người sĩ tử kia. Câu thơ: ” Vì chương hay ghét cũng là hay thương” ông Quán hay chính tác giả cũng đã giải thích cái căn nguyên ghét thương của chính mình. Theo ông chính vì ghét nên mới thương, chính những cái ghét kia đã làm ảnh hưởng đến cái thương của họ.
Tiếp đến mười hai câu thơ sau ông Quán thể hiện cái lẽ ghét của mình, những lẽ ghét được phô bày ra thể hiện ông Quán là một người tri thức thẳng thán dám nói dám làm, dám nhìn vào cái sai của đời trước mà nói lên quan điểm của mình:
“Tiên rằng: Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?
Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm”.
Vân Tiên tỏ ra là một người ham học hỏi không tự nhận mình là tài giỏi, cũng không thấy ông Quán chỉ là một người bán quán mà khinh thường ông. Hỏi ông rằng lẽ ghét thương thế nào thì ông Quán bắt đầu nói về những ghét thương của mình. Ông Quán ghét những chuyện tần phào trong thiên hạ. Truyện tầm phào là những chuyện tranh giành nhau đua nhau vớ vẩn trong thiên hạ. đặc biệt ông thể hiện cảm xúc tột độ của mình bằng cách lặp từ ghét và thêm vào đó những tính từ cay đắng. Đó là cái ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm can của ông.
Sau đó ông thể hiện sự ghét của mình qua những sự việc cụ thể. Nào là ghét đời Kiệt, đời Trụ vì đam mê nhan sắc nên đã đẩy nhân dân vào những chỗ nguy hiểm, rồi lại đến nhà U nhà Lệ vì đa đoan lắm chuyện mà khiến dân lầm than. Ghét đời Thúc Quí, Ngũ Bá làm cho nhân dân rối ren nhọc nhằn. Có thể nói đó toàn là những triều đại nổi tiếng của Trung Quốc những triều ấy đại diện cho những gì vua chúa làm cho nhan dân phải khổ. Ta thấy ông Quán là một con người hiểu biết học sâu. Ông Quán có một lòng yêu thương nhân dân hết mực thì mới hiểu được nỗi khổ của nhân dân như thế. Những cái gì có hại cho nhân dân là ông ghét hết, không phải ghét bình thường mà ghét cay ghét đắng.
Những câu thơ cuối thể hiện sự thương của ông Quán, những người ông thương toàn là những bậc hiền nhân quân tử trung quân ái quốc mà ai cũng biết đến. Nào là tánh nhân như Khổng Tử, rồi lại đến học trò hiếu học như Nhan Tử. Hàng loạt những cái tên của những bậc hiền tài được liệt kê ra Gia Cát, Đồng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ. Đó toàn là những người không những có tài mà còn có đức thế nhưng nhiều người trong đó lại có số phận không may mắn người chết sớm, người gặp cảnh loạn lạc cũng chết Ông Quán thương cho những bậc như thế, những người tài đức là những người được kính trọng yêu mến:
“Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang.
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”
Tác giả kết thúc bằng hai câu thơ cuối cùng như tóm lại cái lẽ ghét thương ở trên đời được nhìn qua con mắt của ông Quán. Đó la những điều thể hiện sự hiểu biết của ông quán cũng như tấm lòng của ông đối với cuộc đời. Chính vì ghét nên mới thương nhân dân, người hiền tài. Ông đã từng xem qua nhiều kinh sử và thấy nửa phần ghét nửa phần thương.
“Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”
Đoạn trích trên đã thể hiện rõ tầm nhìn xa trông rộng của một ông chủ quán. Tất cả những triều đại và việc làm sai trái của họ ông đều biết hết, những bậc hiền nhân quân tử ông cũng biết hết. Qua đó thể hiện người tài trong xã hội còn rất nhiều tuy nhiên chỉ là chán ghét mà ở ẩn vui tuổi già mà thôi. ” Chúng ta thật ngưỡng mộ và khâm phục tài đức của ông chủ quán này. Ông là một người tài nhưng không phải kẻ vì danh lợi nên đã chọn cách mai danh ẩn tích để hưởng những thú vui tao nhã của tuổi già.
” Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”. (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Nguồn: Sổ tay văn học