Đề bài: Phân tích hình tượng con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bài làm:
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn có lòng yêu nước thiết tha, niềm say mê vẻ đẹp thiên nhiên sông núi. Ông còn là nghệ sĩ tài hoa, lịch lãm, uyên bác, rất thích mô tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt vời bằng những câu văn vừa cổ kính vừa mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình và nhìn sự vật theo quan điểm thẩm mĩ, văn hoá. Nét phong cách nghệ thuật ấy của ông trong văn xuôi sau Cách mạng có lẽ được bộc lộ rõ nét và hấp dẫn nhất qua bài tuỳ bút nổi tiếng Người lái đò sông Đà. Qua con mắt nhìn của một nghệ sĩ tài hoa với những giác quan tinh tế, trong cuộc vượt thác sông Đà này, Nguyễn Tuân đã làm hiện lên trước mắt người đọc bức tranh vô cùng ấn tượng về thiên nhiên Tây Bắc vừa tươi đẹp, giàu có vừa bạo liệt, hùng vĩ qua hình ảnh con sông Đà.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác mà là một sinh thể sống động, một nhân vật đầy sức sống và có tính cách hẳn hoi. Đó là sự kết hợp vừa lạ lùng mà thật ấn tượng: vừa hung bạo dữ dằn vừa trữ tình thơ mộng. Lúc hung bạo nó như kẻ thù số một của con người, lúc trữ tình nó lại đầy chất thơ và thân thiết với con người như một cố nhân xa cách thì nhớ nhung lưu luyến. Cho nên hai câu thơ đề từ có thể được xem là đã thâu tóm được hình tượng sông Đà “Đẹp vậy thay tiếng hát trên sông” và “Chúng thuỷ giai đông tẩu – Đà giang bắc lưu”.
I. Tính cách hung bạo – bạo chúa:
Trước hết tác giả giới thiệu lai lịch của con sông Đà “Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông – Vân Nam – Trung Quốc lấy tên là Ly Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến nửa đường thì xâm nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hoà vào sông Hồng.” Sau đó bằng những trang viết sinh động, bằng câu văn độc đáo gợi cảm, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ được hình ảnh con sông Đà mới dữ dằn, hung bạo làm sao!
1. Hung bạo ở chỗ đôi bờ xích lại gần nhau làm cho lòng sông hẹp lại như cái yết hầu thắt giữa hai vách đá dựng đứng hiểm trở. Ở đây “Con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia, ngồi trong khoang đò qua quãng sông ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nhà nào ở tầng mấy vừa tắt phụt ánh điện.”
2. Hung bạo ở cái dữ dằn của gió. “Lại như quãng mặt ghềnh hát loóng dài hàng cây số”gió phối hợp với nước với đá với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn từng luồng gió gùn ghè suốt năm lúc nào cũng đòi nợ xuýt (nợ không có cũng đòi) bất cứ người lái đò nào tóm được qua đây.”
3. Hung bạo hơn nữa là ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: Trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạt đàn” Nước ở đó “cứ ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Con sông Đà không khác gì một loài hung thủ đi đến đâu là gieo rắc tử khí đến đó. Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần đến cái hút nước ấy. Bề gỡ nghênh ngang qua đây như có vẻ thách thức kiêu ngạo, vô ý lại bị cái hút nước đó lôi tuột xuống. Thuyền “Trồng ngay cây chuối ngược, rồi vụt biến đi bị dìm dưới lòng sông đến mười phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷu sông phía dưới”. Cách so sánh ví von, mô tả của Nguyễn Tuân gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của sông Đà mà thót tim lại.
4. Nhưng con sông Đà hung bạo nhất và ở mấy chục con thác đá tạo thành các thạch thuỷ tr vô cùng hiểm trở với biết bao cửa tử. Con sông Đà đã trở thành một loài thuỷ quái vừa hung ác vừa nham hiểm, khi còn ở xa đã lắng nghe được tiếng nước thác khi cán trách, khi van xin, khi khiêu khích khi chế nhạo. Lúc tới gần “thì mặt sông rung lên như tuốc bin thuỷ điện”. Lòng sông thì trắng xoá làm bật nổi những tảng đá dàn bầy thế trận, tảng nào hòn nào trông cũng ngỗ nghịch và như những vị tướng “Có vị trông oai phong lẫm liệt; có vị như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên, xưng tuổi tuổi trước khi giao chiến”. “Có vị lại lùi một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Những tri thức về quân sự, về võ thuật, thể dục, thể thao, điện ảnh của tác giả được dịp ném ra để diễn tả sự độc ác, xảo quyệt hết sức nguy hiểm của con thác. Khi thì nó mai phục để đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt; khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đã giáp lá cà thì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, dở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò giữa sóng nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu “như tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa “Khi con thuyền du kích chọc thủng được tuyến 2, thì nhiệm vụ của các boang ke chìm, pháo đài nổi ở tuyến 3 phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Cuối cùng “cái thằng tướng đá đứng chặn ở cửa ra vào đã tiu ngỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
II. Tính cách trữ tình – nữ hoàng:
1. Qua cách mô tả đặc sắc của Nguyễn Tuân, con sông Đà có hai nét tính cách dường như đối lập nhưng rất thống nhất: vừa hung bạo vừa trữ tình như thể là mĩ nhân vậy. Nguyễn Tuân đã nhìn con sông Đà bằng con mắt thẩm mĩ văn hóa để phát hiện ra những vẻ đẹp và sắc màu đa dạng của con sông Đà chảy dọc suốt miền Tây Bắc này. ở những quãng yên tĩnh thì sông Đà quả thật rất thơ mộng “ Như một mĩ nhân kiều diễm tuôn dài áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”.
2. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng. Qua làn mây mùa xuân, sông Đà xanh màu ngọc bích. Qua ánh nắng mùa thu sông Đà lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa.
3. Nguyễn Tuân cũng đã dùng những hình ảnh dịu dàng, trong sáng nhất để tả sông Đà nên ông đã khám phá ra những chất thơ phong phú, đa dạng của nó: Khi thì nó hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích; khi thì nó mang chất thơ cổ điển Đường thi; khi lại mang chất thơ tươi trẻ “Vui như nắng giòn tan sau kì mưa dầm”. Có khi lại ẩn chứa chất thơ tình tứ “Sông Đà bọt nước lênh bênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của Tản Đà – gửi người tình nhân chưa quen biết). Dưới con mắt của tác giả Vang bóng một thời, cảnh ven sông Đà ở đây lặng tờ cổ xưa như chảy từ đời Lý, đời Trần đến nay. Và giữa cái không khí phẳng phất màu tiền sử ấy, “thỉnh thoảng có đàn cá dầm xanh, anh vũ quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi thoi”. Tiếng cá đập nước sông làm cho đàn hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khói áng cỏ và tai lắng nghe một tiếng còi sương, một âm thanh vẳng đưa trong tưởng tượng, gợi lên một không khí thật tĩnh lặng hoang vắng nhưng chứa chan thi vị. Đắm mình trong vẻ đẹp trữ tình trong vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân nhiều lúc “muốn đề thơ lên sông nước”.
Như vậy để làm nổi bật cái hung bạo, dữ gìn và vẻ hung bạo, thơ mộng, trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo như từ ngữ giàu màu sắc tạo hình, sử dụng hình ảnh đặc sắc, khả năng so sánh, liên tưởng bất ngờ, các biện pháp nhân hoá, ẩn dụ, năng lực quan sát tưởng tượng đặc biệt. 2. Sông Đà đã trở thành một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, làm thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ và bồi đắp cho độc gỉa tình yêu,niềm tự hào về vẻ đẹp đa dngj của thiên nhiên tổ quốc.
Nguồn: Văn mẫu hay