Phân tích con người Nguyễn Khuyến qua bài thơ “Vịnh mùa thu”.
Bài làm
Có thể nói xưa nay trong văn chương Đông Tây kim cổ, có rất nhiều thi sĩ viết về đề tài mùa thu và nhiều bài thơ thu nổi tiếng sống mãi với thời gian. Nguyễn Khuyến là một gương mặt nổi tiếng như cũng đóng góp vào nền thi ca nước Việt một chùm ba bài thơ tả mùa thu mang đậm nét đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, trong đó bài Vịnh mùa thu được lưu truyền rộng rãi nhất bởi nó thể hiện khá đầy đủ và sinh động tâm trạng của tác giả.
Nguyễn Khuyến sáng tác thi phẩm này sau khi ông đã cáo quan về ở ẩn tại quê nhà mình. Đối với nhà thơ quê hương ông là nơi có Vườn Bùi thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, một vùng đồng chiêm trũng đói nghèo bao thuở. Đáng lưu tâm hơn là các chi tiết trong bài thơ đều rút ra từ cảnh vật thân thuộc quanh ông. Đường làng thật nhỏ hẹp uốn lượn giữa hai bờ tre trúc và vô số ao chuôm. Những mái rạ con đường đất lầy lội sau cơn mưa, đơn sơ cùng những cây rơm cũ kĩ thấp thoáng trong vườn cây trái.
Chỉ với hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sơ, thanh thoát, trong đó mọi chi tiết, đường nét, sắc màu đều rất hài hòa, nhịp nhàng, phù hợp với tâm hồn tác giả. Nhà thơ Nguyễn Khuến dường như mới như chỉ nói đến trời thu nhưng ta đã thấy cả hồn thu trong đó rồi:
Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Màu xanh thật đặc biệt, màu xanh ngắt là xanh thăm thẳm tưởng chừng không giới hạn; mấy từng cao là dường như nhiều lớp, nhiều tầng chồng lên nhau, gợi cảm giác cao vời vợi. Và trên cái nền là bầu trời bát ngát xanh, xanh ngắt đó, nổi bật lên hình ảnh thanh tú, mềm mại của cần trúc, tức là cây trúc non chưa trổ lá, cong cong như chiếc cần câu đang đung đưa khe khẽ trước làn gió hắt hiu. Gió như thổi hắt hiu là gió rất nhẹ và như chất chứa đầy tâm trạng bên trong. Có một sự lay động nhẹ nhàng của cần trúc càng tôn thêm vẻ lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng của mình vào bên trong cần trúc, để cho nó chỉ khe khẽ rung rinh. Đó còn chính là nét động và nét tĩnh của cảnh thu chốn đổng quê, đồng thời cũng là những rung động thực sự trong hồn thơ Nguyễn Khuyến. Có thể nói giữa cảnh vật và con người nhà thơ có sự đồng điệu, cảm thông tuy thầm lặng nhưng sâu sắc lạ thường.
Còn đối vơi hai câu thực, ngọn bút vẽ vời của Nguyễn Khuyến chuyển từ cao xuống thấp, từ bầu trời cao xa xuống mặt đất gần gũi ngay trước mắt:
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Nước biếc là một hình ảnh đẹp và đặc trưng của mùa thu. Khi mà khí trời đã bắt đầu se lạnh, vào lúc sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao hồ thường có một lớp sương mỏng màu tím nhạt, trông xa như khói phủ. Khung cảnh bình thường, thậm chí là quá đỗi đơn sơ ấy qua đôi mắt u buồn của thi nhân đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Khi tầng khói phủ khác làn khói phủ bởi sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, có độ sâu và như chất chứa một điều gì đó bên trong nên thành huyền ảo, mông lung. Đó còn chính là dáng thu dưới mặt đất, sau dáng thu trên bầu trời.
Hình ảnh ấn tượng khác cũng được nhà thơ nhắc đến “Song thưa để mặc bóng trăng vào” như có ý cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa như là để ngỏ thì bóng trăng cũng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Và nếu ở câu trên, trạng thái của cảnh vật có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này cảnh vật lại có bề rộng, mặc dù bị giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa nhưng vẫn mênh mông ý nghĩa bên trong âm điệu và từ ngữ. Nhưng dù ở trạng thái nào đi chăng nữa thì cảnh vật trong mùa thi cũng vẫn chất chứa tâm trạng buồn thương.
Có thể nói rằng tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ trong hai câu luận:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Sau khi đã nhìn thấy mặt nước khỏi phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân. Ở đó nở mấy chùm hoa, có lẽ là hoa cúc. Rõ ràng là hoa năm nay mà cụ Tam Nguyên Yên Đổ lại như nghĩ, như nhớ là hoa năm ngoái. Trong đêm khuya vắng lặng, từ trên cao văng vẳng vài tiếng chim, khiến nhà thơ bâng khuâng tự hỏi không biết là tiếng ngỗng nước nào? Đó chính là biểu hiện của nỗi niềm hoài cổ khôn khuây của một người luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm dân nước. Điều gì đang xảy ra, đã làm gợn sóng trong sâu thẳm tâm hồn thi sĩ? Con người dường như đang sống trong thực tại mà như lùi về quá khứ, hay bóng dáng quá khứ luôn hiển hiện trong tiềm thức nhà thơ?!