Em hãy phân tích bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương.
Bài làm
Tú Xương đã sáng tác rất nhiều bài thơ, bài phú nói về vợ. Bà Tú vợ của Tú Xương vốn là “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa gần mến trọng “Đầu sông bến bãi, đua tài buôn chín bán mười Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ”.
Bởi vậy mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu:
“Tiền bạc phó cho con mụ kiếm – Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi”.
“Thương vợ” chính là một trong những bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình cùa Tú xương. Bài thơ như một dòng tâm sự, bày tỏ, đồng thời cũng là bài thơ thế sự của Tú Xương. Bài thơ chứa chan đong đầy biết bao tình thương yêu nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu của tác phẩm đã nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời – hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.
Hai câu thơ trong phần đều như đã giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó để vun vén cho gia đình. Nếu như bà vợ của nhà thơ Nguyễn Khuyến được biết đến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối Nguyễn Khuyến) thì bà Tú là một người đàn bà:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
“Quanh năm buôn bán” đã gợi ra cho người đọc, người nghe cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú, vợ của Tú Xương “Buôn bán ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh nặng gia đình quá lớn như đã đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường, người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc. chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.
Có thể khẳng định rằng với hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo, đảm đang của mình.
Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ của bài thơ dường như đã tăng cấp tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng: đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò”, “cái cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặng lội bờ sông…’’, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông…” được tái hiện rất rõ nét và đặc sắc trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lụi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ… của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “Lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo nhà bà Tú kiếm được “Nuôi đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!
Tiếp theo đó chính là hai câu luận, nhà thơ Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:
“Một duyên hai nợ, âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công”
“Duyên” được hiểu là duyên số, duyên phận, còn “nợ” lại được hiểu là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực trong cuộc đời. Dường như các số từ trong câu thơ như tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… ” như để làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó, bà đã vì sự ấm no hạnh phúc của chồng con và gia đình. Các cụm từ như“Âu đành phận” hay “dám quản công”… giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.
Tựu chung lại thì sáu câu thơ đẳu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương như đã thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh trong bài thơ. Sử dụng các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh “thân cò…” đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Chỉ với hai câu kết ngắn gọn nhưng Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông”, lúc “buổi đò dông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”.
Trách mình “ăn lương vợ” mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế!
Nời đời ắt hẳn ai cũng hay biết Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận, sống giữa một xã hội “dở tây dở ta” chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông nghè, ông cống cũng nằm co” cho nên nhà thơ tự trách mình, đồng thời cũng la trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.
Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ âu cũng chính là thương lấy bản thân chính mình vậy. Đó là nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi.
Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn ngữ thơ của Tú Xương rất đỗi bình dị như tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách ngày nay một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về ngưòi vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Dường như hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.
Tú Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa cái xã hội dở Tây dở ta, khi mà Hán học đã mạt vận, Tú Xương vẫn giữ được nhân cách kẻ sĩ, vẫn sống “sang trọng” như ai, bởi lẽ nhà thơ có người vợ hiền tháo đảm đang. Tú Xương không bảng vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng:
“Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
(…) hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,
Đem chuyện trăm năm – giở lại bàn”.
(Quan tại gia).
Tú Xương đã có bài “Văn tế sống vợ”, lại có thêm bài “Thương vợ”, đó là những áng văn thơ vừa tài tình vừa nghĩa tình. Ca dao có rất nhiều lời hay ý đẹp đã nói về người vợ tào khang “tay bưng chén muối đĩa gừng”, Tú Xương có bao giờ quên được công ơn của bà Tú “Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Á Nam Trần Tuấn Khải được biết đến là nhà thơ cùng thời với Tú Xương đã có bài thơ “Viếng bà Tú Xương” viết năm 1931:
“Hơn sáu mươi năm đất Vị Hoàng,
Mẹ hiền, vạ đức đã treo gương.
Nếm chung trời Việt trăm cay dắng,
Vững với con Côi một mối giường.
Bia miệng đã nên trang khẩn phạm,
Nếp nhà không thẹn dấu văn chương.
Tấm thân tuy thác, danh nào thác,
Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng”.
Thi phẩm đặc sắc ở trên của Á Nam giúp ta hiểu hơn Tú Xương và bà Tú, và chúng ta mới thấy hết cái hay, cái đẹp của tấm lòng Tú Xương được nói đến trong bài “Thương vợ”.