Nhận định về Nam Cao, sách Ngữ văn 11 nâng cao, Tập một viết: “Nam cao có tài đặc biệt trong việc phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật”.

Nhận định về Nam Cao, sách Ngữ văn 11 nâng cao, Tập một viết: “Nam cao có tài đặc biệt trong việc phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật”. Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên

Hướng dẫn

I. MỞ BÀI

– Nam cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Ông có vốn sống phong phú, khả năng đồng cảm đặc biệt với mọi cảnh ngộ, tâm trạng của con người, có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật.

– Sở trường đó của Nam Cao được thể hiện rõ nét ở truyện ngắn Đời thừa (1943) qua việc diễn tả, phân tích những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật Hộ.

II. THÂN BÀI

A. DIỄN TẢ, PHÂN TÍCH SÂU SẮC TÂM LÍ NHÂN VẬT

Nam cao đã diễn tả, phân tích rất sâu sắc những giằng xé trong tâm trạng nhân vật Hộ.

– Trước hết là những day dứt của Hộ về nghề nghiệp. Anh có khát vọng cao đẹp, muốn nâng cao giá trị đời sống của mình bằng lao động sáng tạo nghệ thuật, cống hiến cho đời những tác phẩm có giá trị. Nhưng thực tại đen tối, hoàn cảnh gia đình túng quẫn buộc anh phải viết thứ văn chương vô vị, nhạt nhẽo. Anh đau khổ vì thấy mình đã thành một kẻ vô ích, một người thừa.

– Nam Cao còn miêu tả rất tinh tế những dằn vặt của Hộ về nhân cách. Hộ vốn là một người nhân hậu, vị tha. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hộ cũng không từ bỏ tình thương, làm một kẻ tàn nhẫn. Nhưng do bức xúc về công việc viết lách, anh trút hết bực bội lên đầu vợ con, gây đau khổ cho người mà mình yêu thương, rồi lại hối hận vì chính điều đó.

B. XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG ĐẦY KỊCH TÍNH

Nam Cao đã khéo léo tạo tình huống đầy kịch tính để đẩy xung đột nội tâm của nhân vật lén đỉnh điểm. Xung đột nội tâm của Hộ thể hiện ở mâu thuẫn không thể dung hòa giữa sống với hoài bão nghệ thuật và sống theo nguyên tắc tình thương. Chính vì không thể chọn một trong hai con đường nên Hộ rơi vào bế tắc.

Tâm trạng căng thẳng, bế tắc của Hộ được diễn tả theo cái vòng quẩn quanh: khát vọng — thất vọng – nhẫn tâm – hối hận – khát vọng – thất vọng… càng ngày càng nặng nề hơn.

C. SỬ DỤNG NGÔN NGỮ RẤT LINH HOẠT

Nam Cao rất linh hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ để miêu tả nội tâm. Có chỗ nhà văn dùng lời người kể chuyện để miêu tả tâm lí nhân vật: “Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng thời. Có khi là lời nhân vật tự biểu hiện nội tâm của mình: Ta đành phí một vài năm để kiếm tiền… Có lúc là lời người kể chuyện, vừa là lời nội tâm của nhân vật: Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn!… Chao ôi! Hắn đã viết những gì?… Tất cả góp phần diễn tả sinh động tâm lí nhân vật Hộ.

III. KẾT BÀI

– Nghệ thuật diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao rất sắc sảo, tinh tế với những thủ pháp đặc sắc: tạo tình huống đầy kịch tính: diễn tả sự vận động nội tâm theo vòng quấn quanh: sử dụng ngôn ngữ linh hoạt… tất cả khắc họa rõ nét tâm lí, tính cách nhân vật Hộ.

– Qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã cho thấy khát vọng vươn tới một cuộc sống có ích có ý nghĩa của người trí thức nghèo, đồng thời cho thấy tình cảnh đau khổ, bế tắc của họ trong xã hội cũ: muốn theo đuổi lí tưởng nghệ thuật thì phải bỏ tình thương; muốn sống cho tử tế theo lẽ sống nhân đạo thì phải chấp nhận làm “người thừa” trong văn chương. Từ đó dẫn tới ý tưởng: chỉ khi nào xóa bỏ cái xã hội đen tối, bất công đương thời thì khi đó mới có thể chấm dứt được cái cảnh ngộ quẫn bách, cái bi kịch đáng thương của những người như Hộ.

Phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong truyện ngắn “Đời thừa”. Qua đó làm rõ tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của nhà văn lớn Nam Cao.

BÀI THAM KHẢO

Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc gặp bi kịch của kiếp “tài hoa bạc mệnh”, ở Chí Phèo của Nam Cao, đó là bi kịch của những con người bị tha hóa khát khao lương thiện và cũng với Nam Cao ta gặp ở Đời thừa, tấn bi kịch tinh thần của người trí thức. Đời thừa bộc lộ rõ nét “tư tưởng nhân đạo mới mẻ độc đáo của nhà văn lớn Nam Cao”.

Bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa là bi kịch của một nhà văn – một nhà trí thức giữa “cơn dâu bể” cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng). Nhà văn ấy đã giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình, vậy mà đành bó tay bất lực.

Có thể nói bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là về những giấc mộng văn chương. Hộ đã đặt văn chương lên trên hết: văn chương dường như là khát vọng lớn nhất của anh. Anh muốn trở thành nhà văn chân chính – nhà văn biết

mở hồn đón lấy những vang vọng của đời. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn cho cả loài người. Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội, của cả nhân loại. Nó nói lên được những cái lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa phân khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn. Và nhất định anh sẽ giật giải Nô-ben. Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là một ước mơ chính đáng! Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp đẽ nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình, xác định đúng tư tưởng cho mình.

Anh không sa vào những mơ mộng về nghệ thuật – nghệ thuật là ánh trăng huyền ảo (Trăng sáng). Anh thấy ánh trăng của nghệ thuật biết làm đẹp cả những cảnh thật ra chí tầm thường xấu xa. Quan điểm của anh đúng đắn lắm! Tư tưởng của anh tiến bộ lắm! Thế nhưng trong sáng tác của mình, anh đã viết những gì? Anh không hướng nghệ thuật vào thứ văn chương của bọn nhàn rỗi; anh không viết để cho những cô gái áo xanh, áo đó tha thướt đọc, nhưng anh viết những gì từ khi anh bắt tay vào sáng tác? Chao ôi! Thực tế có phải bao giờ cũng chiều theo khát vọng và đẹp như khát vọng đâu! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên mình dưới bài viết, anh phải đỏ mặt xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông trong một thứ văn chương bằng phẳng và quá ư dễ dãicủa chính mình. Dường như anh hoảng hốt, ngạc nhiên trước những bài viết mình mới cho ra đời. Anh dằn vặt ghê gớm. Anh muốn nhưng có phải bao giờ ý muốn cũng thành hiện thực đâu! Và đó chính là cái bi kịch của anh – bi kịch của một đời viết văn – bi kịch của người hiểu mình, biết mình phải làm gì và đành viết theo những điều mình chẳng hề muốn. Ta cảm thấy cái đau đớn khủng khiếp tự chốn sâu thẳm của tâm hồn anh. Một cái gì đó bỗng chốc sụp đổ trong anh. Đấy chính là sự sụp đổ của một khát vọng đẹp và chân chính.

Anh phải viết ẩu như thế, bôi bác như thế cũng chính vì những ràng buộc của “áo cơm”. Chao ôi! Giá như anh được bay nhảy với những giấc mơ ấy!

Nhưng cơm áo không đùa với khách thơ (Xuân Diệu). Anh còn người vợ yếu và một đàn con nhỏ. Kiếp người với bao toan tính bộn bề níu kéo anh, không cho anh bay lên cùng giấc mộng của đời trai trẻ. Chính nỗi lo về vật chất đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hàng ngày… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều, để vợ anh, con anh và chính anh khỏi đói. Giá như anh cứ dứt bỏ cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế! Nhưng anh phải nghĩ tới tác phẩm của anh, các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh càng đau đớn! Nước mắt anh không chảy nhưng đớn đau thì chồng chất. Chao ôi! Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay (ao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh, bi kịch của những giấc mộng văn chương ấy chính là điều day dứt trong anh mãi không thôi.

Xem thêm:  Nếu giọt nước là những nụ hôn, anh sẽ trao em biển cả. Nếu lá là những ôm ấp vuốt ve, anh sẽ tặng em cả rừng cây. Nếu đêm dài là tình yêu, anh muốn gửi em cả trời sao lấp lánh. Nhưng trái tim anh không thể dành tặng em được vì nơi đó đã thuộc về em rồi. Chúc em một ngày 20/10 hạnh phúc!

Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm của con người thì Nam Cao mới viết được những dòng đầy cảm xúc nhiều thế! Dường như những day dứt trong cuộc đời ông – cuộc đời văn sĩ khổ ải — đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã đi vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kìtrước Cách mạng. Ta không hoàn toàn nghĩthế. Nam Cao đã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam Cao hơn hẳn Hộ, ông đã biết vươn lên trên những lo toan ấy để biến giấc mơ thành hiện thực. Ông đã viết những lời văn hay nhất, đẹp nhất về cuộc đời những kiếp lầm than và chắc chắn Nam Cao không phải đỏ mặt khi thấy tên mình sau những tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa… Bởi đó chính là giấc mơ văn chương nảy nở. Có thể nói với Đời thừa, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với người trí thức… Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được lòng nhân đạo truyền thống của cha ông. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng nhu lãnh đạm, thờ ơ lại là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi, một trái tim của tình nghĩa.

Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai, chính là bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết cẩu thả của anh. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Anh chưa thực hiện được khát vọng của mình, anh chưa viết được cuốn tiểu thuyết của đời anh, nhưng anh nuôi được vợ con. Anh đã kéo dài được sự tồn tại của gia đình mình. Và điều đó có thể coi là việc làm hữu ích. Đó là cái an ủi cho cái “đời thừa” của một nhà văn. Thế cũng đáng an ủi lắm chứ!

Vì anh là người đặt “tình thương” lên hàng đầu, lẽ sống của anh là tình thương. Tình thương là trên hết. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công binh. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi bao nhiêu xương thịt củ tan ra thành nước mắt. Từ gặp Hộ, tình yêu thương của anh đã tỏa rạng, giúp Từ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao? Chính tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp quá! Đời anh không phải là “Đời thừa” với gia đình nho nhỏ của anh. Anh đau khổ vì cái tên anh cứ lu mờ dần sau những tên khác mới xuất hiện rực rỡ, nhưng với Từ và đàn con, anh là biểu tượng sáng chói của tình thương. Tình thương ấy rất đáng trân trọng. Trong một xã hội rác rưởi như thế, hành động của anh chăng là một hành động tốt đẹp hiếm hoi hay sao? Thế nhưng, anh cũng chăng giữ được trọn vẹn cái lẽ sống cao quý ấy của mình nữa. Quả là một sai lầm khi anh có lúc đã kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổgiấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Anh cạn nghĩ quá! Đó không phải hoàn toàn do lỗi của vợ con anh. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khígia đình đã khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Anh muốn quênđi tất cả.

Anh không say trong men rượu. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh được về đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu”chết tiệt” ấy chính là cái nguyên nhân trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Rượu đánh đồng những người xấu, người tốt, kẻ giàu, người nghèo trong những cơn say. Khi say, ai cũng như ai hết! Men rượu đã khiến anh trở thành một kẻ tiểu nhân vô học. Anh đã vi phạm đạo đức, lẽ sống, tình thương của mình. Anh đã đánh vợ con như một kẻ vũ phu. Vâng, chính lúc đó, anh là kẻ vũ phu. Anh đã hành hạ người vợ hiền lành tận tụy của mình. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ nữa… cũng đáng vật một nhát cho chết nốt”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong cơn say. Sao mà tai hại quá! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “con người”. Lẽ sống ấy đã bị anh chà đạp. Anh coi cuộc đời anh là “đời thừa”. Bi kịch đầu tiên là bi kịch của giấc mộng văn chương nên cái “thừa” còn không quá đau đớn như bi kịch này, bi kịch mà kết cục là cái “thừa” của anh đã được thể hiện đầy đủ. Đó là bi kịch tinh thần của con người ý thức được phẩm giá, nhân cách của mình! Ở bi kịch trước, cái mặc cảm tội lỗi trong anh rất lớn vì anh là một nhà văn. Nếu Chí Phèo chỉ gieo rắc tội lỗi của hắn cho dân làng Vũ Đại, anh giáo Thứ chỉ truyền thụ sự chán nản lên đầu học sinh thì Hộ gieo những tình cảm rất nhẹ rất nông, những tình cảm quá ư tầm thường cho bao nhiêu độc giả. Bi kịch của một người mặc cảm tội lỗi còn lớn hơn nhiều. Với tư cách của một nhà văn, anh đã gây ảnh hưởng đến người đọc từ những bài văn viết chỉ để lấy lợi nhuận. Rồi bây giờ, với tư cách của một con người, anh đã phá hỏng nốt cái tốt đẹp trong mình. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa. Bi kịch này đau đớn gấp bội bi kịch kia, bởi lẽ sống tình thương là chỗ dựa của bao giá trị khác.

Bi kịch này khủng khiếp và hoàn toàn không có lối thoát. Dường như nó bao trùm thành bi kịch của cả đời anh. Tuy vậy cũng cần nói thêm rằng, bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc chung của thời đại mà anh đang sống.

Đó phải chăng là nét hạn chế trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao? Ông biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nỗi khổ của họ, nhưng chưa đề ra được lối thoát cho họ. Dù sao, “những tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy thật đáng quý, đáng trân trọng! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người, tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm.

Ngày nay cuộc đời đã được đổi thay, không còn những bi kịch tinh thần như Hộ nữa. Nhà văn ngày càng được ưu đãi hơn. Đời thừa giúp chúng ta không quên thời kì mà người trí thức văn nghệ sĩ đã phải mang những bi kịch tinh thần.

Tư tưởng nhân đạo mới mẻ độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật của ông vượt qua bao thăng trầm vẫn xứng đáng với tư cách một con người chân chính.

(HS Nguyễn Hồng Hải, THPT Hà Tây)

Phân tích quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.

YÊU CẦU

– Thể loại

Kiểu bài phân tích nhân vật văn học, cụ thể là phân tích nhân vật theo định hướng.

– Nội dung

Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo (trong truyện ngắn Chí Phèo – Nam Cao).

GỢI Ý

– Trước hết cần tóm tắt cuộc đời Chí Phèo, giải thích sự tha hóa.

Xem thêm:  Phan Từ “Lưu biệt khi xuất dương” của Bội Châu, anh (chị) rút ra được những bài học gì về lí tưởng, khát vọng sống của bản thân

– Sau đó, phân tích (nội tâm) nhân vật, có dẫn chứng bằng suy nghĩ, hành động của Chí Phèo.

– Cuối cùng, có thể nêu bật giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm để nhận xét chung.

Thân bài gồm ba đoạn chính như sau.

A. CUỘC ĐỜI CHÍ PHÈO

1. Sống lương thiện, nghèo khổ

Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo bị bỏ rơi bên một cái lò gạch cũ. Là một đứa con hoang được dân làng nuôi, Chí Phèo lớn lên như một loài cây dại, tuổi thơ hết đi ở nhà này lại đi ở cho nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Ví một chuyện ngờ ghen vớ vẩn, lí Kiến đã nhẩn tâm đẩy Chí Phèo vào tù.

2. Từ khi Chí Phèo ra tù đến khi gặp thị Nở

Sau bảy tám năm biệt tích, Chí Phèo trở về làng, hoàn toàn biến đổi nhân hình lẩn nhân tính, chuyên đập đầu, rạch mặt để ăn vạ và đâm chém người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Anh hoàn toàn bị tha hóa, sống triền miên trong những cơn say, không ý thức được hành động và cuộc sống của chính mình.

Cho đến khi Chí Phèo gặp thị Nở trong một cơn ốm và anh được thị Nở chăm sóc. Tình cảm chân thật của thị Nở đã khơi dậy ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Anh nghĩ rằng thị Nở cảm thông được với mình thì người khác cũng có thể chấp nhận mình, nên mong được làm hòa với mọi người. Bản chất tốt đẹp của người lao động trong Chí Phèo vốn tiềm tàng, nay có cơ hội tỉnh thức, anh muốn làm người lương thiện.

3. Từ khi bị thị Nở khước từ đến khi dâm chết bá Kiến rồi tự sát

Chí Phèo tha thiết muốn trở về với mọi người, nhưng tất cả làng Vũ Đại đều sợ hãi và xa lánh anh, thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Anh lại rơi vào tình thế hoàn toàn tuyệt vọng và bỗng nhận ra kẻ đã cướp quyền làm người của mình là bá Kiến, thảm kịch xảy ra: anh đâm chết bá Kiến rồi tự sát.

B. THA HÓA VÀ QUÁ TRÌNH THA HÓA CỦA CHÍ PHÈO

1. Tha hóa là biến đổi thành cái khác. Trong truyện Chí Phèo, tình trạng con người bị tha hóa có thể hiểu ở hai phương diện. Một là không được sống như bản chất người của mình: Chí Phèo vốn là một nông dân lương thiện mà phải sống như một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hai là những sản phẩm do mình tạo ra lại trở thành xa lạ, thậm chí thù địch với chính mình: những người nông dân như Chí Phèo đã xây dựng nên làng Vũ Đại cần lao và lương thiện, nhưng cái làng ấy lại không chấp nhận Chí Phèo quay về, thậm chí còn thù ghét và sợ hãi anh (khi Chí Phèo chết, cả làng cảm thấy mừng rỡ).

2. Chí Phèo tuy bị tha hóa từ lâu, nhưng trước khi gặp thị Nở, anh sống triền miên trong những cơn say và chưa thấy mình khổ, nghĩa là chưa thật sự có bi kịch nội tâm. Cho đến lúc bị ốm, gặp thị Nở, Chí Phèo tỉnh ra, mới ý thức được tình trạng tha hóa của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm của anh.

3. Nam Cao đã cho thấy tất cả nỗi thống khổ ghê gớm của nhân vật Chí Phèo. Nỗi thống khổ đó không phải là không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích… mà chính là Chí Phèo bị xã hội vằm nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, phải sống kiếp sống tối tăm của con vật lạ. Đó chính là nỗi thống khổ của cá thể sinh ra là người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ chối, xua đuổi.Tình trạng bi thảm này được tác giả minh chứng trong đoạn mở đầu giới thiệu một chân dung, một tính cách ‘hấp dẫn”, vừa hé cho thấy một số phận bi đát. Dù say rượu đến điên khùng, Chí Phèo vẫn như cảm nhận thấm thía “nông nỗi” khốn khổ của thân phận mình. Anh chửi trời, chửi đời rồi chuyển sang chửi tất cả làng Vũ Đại, cuối cùng chửi thằng cha con mẹ nào đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Không ai chửi lại anh vì rất đơn giản là không ai coi anh như con người!

4. Hơn nữa, con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo bị chặn đứng lại. Bà cô của thị Nở dứt khoát không cho cháu bà đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề la rạch mặt ăn vạ. Bà ta cũng giống như mọi người, quen coi Chí Phèo là “con quỷ dữ” từ lâu rồi. Thế là Chí Phèo bị rơi vào một bi kịch tâm hồn đau đớn, bi kịch của con người không được nhận làm người. Ngay trong phút giây tuyệt vọng đó, anh xách dao đến nhà bá Kiến, không chỉ vì say mà chủ yếu vì lòng căm thù vẫn âm ỉ lâu nay trong đầu óc u tối của anh giờ đây đã bừng lên. Những lời lẽ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đau đớn đó: “Tao muốn làm người lương thiện… Không được! Ai cho tao lương thiện’? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện được nữa, Biết không!”. Sau khi đâm chết bá Kiến, Chí Phèo chỉ còn một cách là tự sát. Thế là trước đây, để bám lấy sự sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây ý thức về nhân phẩm thức dậy, linh hồn đã trở về, Chí Phèo lại phải tự hủy diệt cuộc sống của mình.

C. GIÁ TRỊ TỐ CÁO HIỆN THỰC

– Chí Phèo là một sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột ở nông thôn nước ta trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là hiện tượng người lao động lương thiện bị đẩy vào con dường lưu manh, dần dần bị tha hóa. Vì hờn ghen vớ vẩn, Lí Kiến đẩy anh canh điền vào nhà tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay lão cường hào thâm độc để giết

chết phần “người” trong con người Chí Phèo, biến Chí thành Chí Phèo, biến người nông dân lương thiện thành quỷ dữ. Chi tiết kết thúc tác phẩm đầy ngụ ý; biết đâu lại chẳng có một “Chí Phèo con” bước từ cái lò gạch cũ vào đời để “nối nghiệp bố”. Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho con người được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi;

– Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là vạch ra được quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xãhội tối tăm của nông thôn nước ta thời đó.

Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao để chứng minh nhận định: “… Chí Phèo chẳng những bị tước đoạt nhân tính mà còn bị hủy hoại cả nhân hình nữa. Người nông dân bị lưu manh hóa ấy, cuối cùng đã thức tỉnh. Nhưng điều bi thảm là anh ta chỉ muốn trở lại làm người mà không được.

DÀN Ý

I. MỞ BÀI

– Tuy chỉ thực sự viết văn hơn mười năm, nhưng Nam Cao đã để lại nhiều sáng tác văn xuôi giá trị: hơn 60 truyện ngắn, một truyện vừa, một tiểu thuyết và một số vở kịch. Truyện của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945 nêu bật nỗi băn khoăn đau đớn trước tình trạng con người bị hủy hoại dần mòn về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Bên cạnh những truyện về người trí thức nghèo, hình ảnh người nông dân nghèo bị áp bức, thậm chí bị lưu manh hóa do tội ác của bọn cường hào, địa chủ đã được thể hiện thật sâu sắc trong một truyện ngắn nổi tiếng của ông: Chí Phèo.

– Ghi lại nhận định đề bài.

II. THÂN BÀI

A. CON NGƯỜI CHÍ PHÈO CHẲNG NHỮNG BỊ TƯỚC ĐOẠT NHÂN TÍNH MÀ CÒN BỊ HỦY HOẠI CẢ NHÂN HÌNH NỮA

1. Chí Phèo bị hủy hoại nhân hình

Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo là một đứa con hoang, bị bỏ rơi bên một lò gạch cũ. Được dân làng nuôi, Chí Phèo, lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ hết đi ở nhà này lại đi ở nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng, Chí Phèo đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm, cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt, gườm gườm trông gớm chết.

Chí Phèo chuyên đập đầu, rạch mặt và đâm chém người cho nên cái mặt hắn vàng mà lại muốn xạm màu gió, nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Đây Mùa Thu Tới của Xuân Diệu

Người cố nông ấy hoàn toàn bị tước đoạt nhân hình, biến thành nửa người nửa vật: nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của một cơn vật lạ.

2. Chí Phèo bị tước đoạt nhân tính

Từ lúc về làng, Chí Phèo hoàn toàn không kiểm soát được hành động của mình. Khi mua chịu rượu, bà hàng ngần ngừ không muốn đưa thì hắn rút bao diêm, đánh cái xoè, châm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu la om sòm, vội dập tắt được ngọn lửa mới cháy, rỗi khóc khóc mếu mếu, mụ đưa ra chai rượu.

Chí Phèo hoàn toàn bị tha hóa, hành động như người mất trí. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Trong cơn say, Chí Phèo hành động tàn bạo như một con quỷ dữ, hoàn toàn mất nhân tính. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận (…). Hắn biết đâu đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, dập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện!

B. NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ LƯU MANH HÓA ẤY CUỐI CÙNG ĐÃ THỨC TỈNH

1. Người nông dân bị tha hóa

Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá, thậm chí bị hủy hoại hoàn toàn của Chí Phèo, bản chất lương thiện ngày thường bị che lấp đi, vẫn le lói một ánh lương tri, sẽ bừng sáng khi gặp được cơ hội. Lúc được thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn phải dọa nạt hay giật cướp mới có.

Tình cảm chân thật của thị Nở đã khơi dậy ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Từ lúc này, Chí mới ý thức tình trạng tha hóa của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm.

2, Cuối cùng đã thức tỉnh

Sau khi được thị Nở chăm sóc, lần đầu tiên khi tỉnh giấc, Chí Phèo bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ thì niềm ao ước có một gia đình nho nhỏ bừng lên. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?

Bản chất tốt đẹp của người lao động thức tỉnh trong lòng Chí: Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!… Người ta sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện…

C. NHƯNG ĐIỀU BI THẢM LÀ ANH TA CHỈ MUỐN TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI MÀ KHÔNG ĐƯỢC

1. Chí Phèo lại rơi vào bế tắc

Chí Phèo tha thiết muốn trở về sống lương thiện với mọi người, nhưng tất cả làng Vũ Đại đều sợ hãi, xa lánh anh ta. Thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Chí lại rơi vào tình thế hoàn toàn tuyệt vọng: Sống lương thiện thì không được chấp nhận, làm lưu manh như cũ thì không thểvà cũng không muốn.

Những lời lẽ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đó: “Tao muốn làm người lương thiện (…) Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không!”.

2. Bi kịch biến thành thảm kịch

Chí Phèo đã đâm chết bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch đời Chí, rồi tự sát.

Nhân vật Chí Phèo được xây dựng thành công: vừa có nét khái quát, vừa có cá tính. Người cố nông đó đã vừa bị hủy hoại nhân hình, vừa bị tước đoạt cả nhân tính. Nhân vật được miêu tả sâu sắc từ chân dung đến tính cách, từ bộ mặt đến những diễn biến tâm lí.

III. KẾT BÀI

Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện ở tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Tác giả phát hiện những phần sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện.

Chí Phèo là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh: Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện, để họ được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ mất cả nhân hình lẫn nhân tính đầy bi kịch xót xa.

Nêu cảm nhận của anh/chị về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành săn cho Hộ (Đời thừa – Nam Cao).

DÀN Ý

I. MỞ BÀI

– Nam Cao là nhà nhân đạo lớn, nhà hiện thực bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại; sáng tác vừa chân thực giản dị vừa thấm đượm ý vị triết lí nhân sinh; có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí phức tạp của con người.

– Chí phèo và Đời thừa là những truyện ngắn xuất sắc, rất tiêu biểu cho. sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám. “Bát cháo hành” và “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” là những chi tiết đặc, sắc góp phần quan trọng thể hiện tâm lí nhân vật, tư tưởng tác phẩm và điển hình cho nghệ thuật Nam Cao.

II. THÂN BÀI

A. CHI TIẾT “BÁT CHÁO HÀNH” TRONG “CHÍ PHÈO”

1. Ý nghĩa về nội dung

– Thể hiện sự chăm sóc ân cần của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.

– Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.

– “Bát cháo hành” đã đánh thức tính người bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo:

– Gây ngạc nhiên, gây xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình.

– Khơi dậy niềm khát khao được làm hòa với mọi người; hi vọng vào một cơ hội trở về với cuộc sống lương thiện.

2. Ý nghĩa về nghệ thuật

– Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.

– Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào khả năng cảm hóa của tình người.

B. CHI TIẾT “ẤM NƯỚC ĐẦYVÀ NƯỚC HÃYCÒN ẤM” TRONG “ĐỜI THỪA”

1. Ý nghĩa về nội dung

“Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” Từ dành sẵn để Hộ có cái uống khi tỉnh rượu, thể hiện sự chăm chút tận tâm của Từ, dù trước đó Từ bị Hộ đối xử tệ bạc; biểu hiện của tình yêu thương sâu bền, lòng biết ơn và sự bao dung nguyên vẹn của người vợ yếu ớt; đánh thức lương tâm và lương tri của Hộ, khiến anh thấm thía về nghĩa tình, day dứt, ăn năn về những hành vi vũ phu với vợ con khi say.

2. Ý nghĩa về nghệ thuật

Giúp khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật và góp phần thể hiện sinh động tư tưởng của Nam Cao về khả năng cảm hóa của tình người.

C. SO SÁNH

1. Tương đồng

Hai chi tiết đều góp phần biểu hiện tình cảm, tấm lòng của người phụ nữ. Tình người của họ đã đánh thức tính người của những kẻ bị tha hóa. Những chi tiết đó đều bộc lộ niềm tin sâu sắc vào tình người; đều thể hiện biệt tài sử dụng chi tiết của Nam Cao.

2. Khác biệt

“Bát cháo hành” (và “hơi cháo hành” được tô đậm trong tác phẩm, là một nỗi ám ảnh đã thức tỉnh Chí Phèo, phù hợp với tâm lí người nông dân. “Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” chỉ xuất hiện thoáng qua, nhưng cũng đủ tác động làm thức tỉnh lương tri của Hộ, phù hợp với tâm lí của người tri thức.

III. KẾT BÀI

Nam Cao đã có cái nhìn đầy nhân đạo đối với con người. Đó là cái nhìn đầy cảm thông, thương yêu và cũng rất trân trọng đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ: người trí thức tiểu tư sản nghèo và người nông dân nghèo đang dần dần bị tha hóa. Mùi cháo hành đã đẩy lùi hơi rượu trong Chí Phèo, ấm nước đầy và nước hãy còn ấm là những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc bắt nguồn từ trái tim nhân đạo của nhà văn.

Theo Baigiangvanhoc.com

Check Also

1e2e7fa24ea378d32ed0630dc6f80716 310x165 - Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận đầy đủ hay nhất lớp 11

Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận đầy đủ hay nhất lớp 11

Chúng ta đã học gần như đầy đủ tất cả các kiến thức về các …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *