Cảm nhận bài thơ “Nhàn” – Nguyễn Bỉnh Khiêm lớp 10 hay nhất

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những tác gia trung đại trong nền văn học Việt Nam. Là quan lớn nhưng ông nổi tiếng với một phong cách sống thanh cao, giản dị, gắn bó và hòa hợp với thiên nhiên, không màng vật chất, địa vị mà chỉ quan tâm tới cuộc sống và sự ấm no của nhân dân. Ông đặc biệt yêu thích cảnh vật sông suối, cây cỏ, ưa sự thanh tao, mộc mạc, một lối sống khác sa với sự sa hoa mà những vị quan lớn thời đó thường có. Chính vì vậy mà ông được nhân dân yêu mến hết lòng, được lập nhiều đền thờ ở nhiều nơi sau khi ông mất.

Trong cuộc đời của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại cho đời sau nhiều áng văn, áng thơ rất đặc sắc mà một trong số đó là bài thơ “Nhàn”. Để làm được bài văn cảm nhận về bài thơ này, cần đọc kĩ văn bản, nắm bắt được những đặc sắc nghệ thuật, những tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ gửi gắm để giải mã và gắn nó vào với sự cảm nhận của mỗi cá nhân. Bài viết dưới đây là một bài tham khảo cho dạng bài này.

BÀI VĂN MẪU CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “NHÀN” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM LỚP 10

 Nền văn học trung đại đồ sộ đã mang đến cho chúng ta nhiều áng thơ hay, mang giá trị lớn lao. Trong số đó, không thể không nhắc đến bài thơ “Nhàn” của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ đề cao triết lí sống thanh cao của những vị danh nhơ đương thời:

  • “Một mai, một cuốc, một cần câu
  • Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
  • Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
  • Người khôn, người đến chỗ lao xao
  • Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
  • Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
  • Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
  • Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao”

Câu thơ đầu mở ra những hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” đều là những công cụ gắn liền với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình với tư thế của một lão nông biết đến ruộng vườn, nhất định không phải tư thế đạo mạo của một bậc đại nho. Câu thơ ngắt nhịp thoải mái, sử dụng lặp lại từ “một” khiến lời thơ vang lên như một tiếng sấm rạch ròi, chứng tỏ nhà thơ đón lấy cuộc sống hết sức vui sướng, niềm vui vì được làm điều mình thích.  “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, nhàn nhã, thoải mái, tác giả cảm thấy tự tin vì sự lựa chọn của mình. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, khẳng định người khác có thú vui riêng và tác giả cũng vậy. Hai câu đầu khẳng định nhàn không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một không gian sống mà mình thấy thích thú, tự do tự tại

Xem thêm:  Phân tích bài về đọc sách – Chu Quan Tiềm

Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hòa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:

  • “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
  • Người khôn người đến chốn lao xao”

“Ta” là nhà thơ, “người” là ai, chắc chắn không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham công danh lợi lộc. Hai câu thơ có thể hiểu nơi vắng vẻ không phải là nơi lánh đời mà là nơi bản thân mình cảm thấy thích thú, sống thoải mái khác hẳn với chốn quan trường. Chốn thiên nhiên nơi đây là nơi thích hợp nhất để Nguyễn Bỉnh Khiêm tránh xa thói đời ô tạp, để giữ cho tâm hồn mình luôn trong sáng và thanh sạch hơn. Bẳng cách nói ngược “dại” mà thực chất là “khôn”, còn “khôn” nhưng thực chất lại là “dại”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sáng suốt lựa chọn lối sống đối lập với bao người, thoái khỏi chốn lợi danh, ganh đua để sống an nhiên và tự tại. Cách nói nhún nhường, khiêm tốn của bậc đại nho là lối ứng xửa minh triết của một bậc chân nho:

  • “Dụng chi tắc hành
  • Xa chi tắc tàng”
  • (Dùng thì sẽ ắt nên công,
  • Nếu mà từ khước, hư không chẳng còn)

Nhàn là trở về với cuộc sống tự nhiên, thoát khỏi vòng ganh đua lợi lộc, thói tục, không bị vướng vào tiền tài, địa vị và giữ cho tâm hồn mình luôn khoáng đạt bởi:

  • “Thu ăn măng trúc đông ăn giá
  • Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

Mùa nào thì gắn với sự vật ấy, đều có sẵn trong tự nhiên không phải vất vả kiếm tìm. Đây là hình ảnh của cuộc sống tự cung tự cấp nhưng vẫn hết sức đủ đầy và vui vẻ. Phải chăng tác giả đã đan xen vào đó triết lí vô vi của đạo giáo: Không làm gì can thiệp vào quy luật của tự nhiên mà để chúng tự phát triển, đề nghị con người có lối sống thuần theo tự nhiên hay sao? Thức ăn có sẵn trong tự nhiên tuy đạm bạc nhưng không phải là món ăn khoái khẩu, nhưng lại là cái nhàn thanh cao chứ không phải cái nhàn tục của hạng người phú quý, biếng nhác. Vì vậy câu thơ nghe nhẹ bẫng mà thanh thản, lâng lâng một niềm vui, cái nhẹ tênh của một cuộc sống không cần gắng gượng.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”

Tuy nhiên đến với cuộc sống nhàn phần nào cũng bởi đời ô trọc mà thôi. Có vẻ nhà thơ nhàn mà chưa thực sự nhàn, vẫn nhắc đến chuyện công danh:

  • “Rượu đến cội cây ta vẫn uống
  • Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Hai câu thơ sử dụng điển Thuần Phong Vũ, thể hiện một cái nhìn bi quan về công danh khi thấy chúng chỉ tựa như một giấc chiêm bao, là áng phù vân, không có giá trị đích thực, không có ý nghĩa. Bởi vậy từ đó thi gia muốn nói con người coi thường phú quý, đứng cao hơn phú quý và không làm nô lệ cho nó. Với cái nhìn như thế, tác giả đã hoàn toàn quay lưng vào công danh, lấy nhàn làm chân lí sống. Vần thơ của cụ Nguyễn có sức cảnh tình với con người cần phải sáng suốt trước lợi lộc trước mắt.

Tóm lại, “Nhàn” đề cao một nhân cách sống, một lối sống thanh cao, tránh xa lợi lộc tầm thường, hướng đến lối sống thiện tâm. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh thời đại mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đang sống, đó không phải là một giải pháp tốt để có thể cải tạo và thay đổi xã hội.

Nguồn Internet

Có thể bạn thích

Xem thêm:  Có ý kiến cho rằng: Cái gốc của ca dao hài hước, suy đến cùng, cũng là trữ tình, vì có yêu, có ghét, và đến một mức nào đó thì bật ra tiếng cười hài hước. Nêu ý kiến của anh (chị)

Check Also

7246 1494911290063 1020 310x165 - Soạn bài Ôn tập phần làm văn lớp 10 hay đầy đủ nhất

Soạn bài Ôn tập phần làm văn lớp 10 hay đầy đủ nhất

Ôn tập phần làm văn lớp 10 là bài tổng hợp các kiến thức văn …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *