Phân tích nhân vật cậu bé thông minh trong truyện cổ tích “Em bé thông minh”. ( Văn lớp 6).
Bài làm
Sự thông minh, trí khôn của con người đặc biệt là người dân lao động luôn được ông cha ta ca ngợi. Trong văn học dân gian, truyện cổ tích về nhân vật có trí khôn chiếm số lượng lớn. Cậu bé thông minh trong truyện cổ tích cùng tên đã để lại trong lòng bao đứa trẻ thế hệ Việt Nam nhiều ấn tượng sâu sắc.
Cậu bé thông minh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo nơi làng quê yên bình. Sự thông minh lanh lợi và trí khôn hơn người của em được bộ lộ thông qua việc giải các câu đố. Tài năng của em bé thông minh được một ông quan phát hiện trong một hoàn cảnh hết sức ngẫu nhiên. Trên đường đi tìm kiếm nhân tài cho triều đình, thấy hai cha con đang cày ruộng, viên quan bèn đố người cha: Trâu của ông cày được bao nhiêu đường một ngày. Trong khi người cha đang cảm thấy lúng túng và bất ngờ thì cậu bé đã nhanh nhảu trả lời viên quan bằng một câu hỏi rất tinh tế và không kém phần khó: Ngựa viên quan đi được bao nhiêu bước một ngày. Ngay từ câu đố này ta đã nhận thấy cậu bé tuy nhỏ nhưng rất nhanh nhạy và khôn khéo. Câu trả lời bằng một câu hỏi tương tự của cậu bé đã khiến viên quan vô cùng vui mừng trầm trồ vì đã tìm được nhân tài và về tâu với vua. Trí thông minh của cậu bé một lần nữa được bộc lộ rõ hơn qua việc giải câu đố của vua. Khi vua ban xuống 3 con trâu đực cùng 3 thúng thóc với yêu cầu vô lí là phải nuôi trâu sau 3 năm đẻ thành 9 con. Mọi người trong làng đều lo lắng vì đây chẳng khác gì tai họa. Việc nuôi trâu đực đẻ con là điều không thể. Trước hoàn cảnh đó, cậu bé rất bình tĩnh và sáng suốt. Cậu bảo cha cho dân làng thịt trâu, lấy nếp đồ xôi ăn uống, còn lại làm lộ phí cho cha con lên kinh gặp vua. Cậu bé lấy chuyện ba không chịu đẻ để nhờ vua khuyên cha từ đó bắt bẻ lí lẽ của vua rằng giống đực làm sao đẻ được. Ở chi tiết này ta thấy được cậu bé không những thông mình mà còn rất dũng cảm và bản lĩnh khi giám đối chất với vua. Trước tài năng của cậu bé, vua rất lấy làm hài lòng nhưng vẫn thách đố tiếp, lần này câu đố có phần khó hơn. Vua bắt câu bé chuẩn bị một mâm cỗ chỉ với nguyên liệu là một con chim sẻ. Lại một lần nữa cậu bé dùng một yêu cầ tương tự để trả lời câu đố của vua. Cậu yêu cầu vua cho người rèn dao để làm thịt chim. Với một tình huống bất ngờ thế này, nếu như không có một trí khôn hơn người, không có một bản lĩnh phi thương sẽ không thể nào giải quyết được.
Tác giả dân gian không chỉ tạo ra những chi tiết làm nổi bật sự thông minh của con người mà mỗi một câu chuyện, một chi tiết thể lại có mức độ tăng dần về độ khó và tính quan trọng của câu đố. Ở đây, các thử thách của nhà vua dành cho em bé thông minh tăng dần mức độ. Nó không còn đơn thuần là một câu hỏi, câu đố của nhà vua, mà còn là câu hỏi của xứ thần nước khác. Nếu cả một quốc gia mà không ai giải được câu đố oái oăm của nước bạn thì thật sự xấu hổ. Nhưng rồi một câu hỏi hóc búa làm quan đại thần ai cũng toát mồ hôi thì em bé thông minh lại giúp giải dễ dàng. Xứ giả nước láng giềng đố rằng làm sao luồn được sợi chỉ qua vỏ ốc xoắn. Em bé nhanh trí giải đáp bằng một bài hát đồng dao. Cách giải quyết câu đố của em bé khiến ai nấy đều nể phục:
Tang tình tang! Tang tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,
Bèn thời lấy giấy mà bưng,
Bền thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang….
Giải được câu đố, cậu bé thông minh không những cứu cả triều đình mà còn cứu cả một đất nước. Bởi lẽ, sứ giả nước láng giềng đưa ra câu đố nhằm mục đích kiểm chứng xem nước Nam có nhân tài hay không. Cậu bé thông minh giải được câu đố một cách dễ dàng đã khiến họ từ bỏ ý định muốn xâm lược. Từ đó cậu bé đã góp sức giữ gìn nền hòa bình của đất nước.
Tóm lại qua những lần giải đố tăng dần mức độ khó, tác giả dân gian ca ngợi trí thông minh của người dân. Hình ảnh cậu bé thông minh cùng truyện cổ tích cùng tên đã trở thành biểu tượng đẹp mãi trường tồn trong trái tim mỗi con người Việt Nam bao thế hệ.