Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (có dàn ý và bài làm chi tiết)
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc,danh nhân văn hóa thế giới,ông có nhiều sáng tác đạt đến trình độ cổ điển và mẫu mực.
Bài thơ ''Đọc Tiểu Thanh kí'' được khơi nguồn cảm hứng từ số phận bị kịch của người con gái tài hoa mà bạc mệnh.
2. Thân bài
Nỗi đau đớn, xót xa của Nguyễn Du trước sự lụi tàn của cái đẹp.
''Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư''
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Trong câu thơ thứ hai, bản dịch thiếu mất chữ ''độc'' là cô độc, ''điếu'' là viếng.
Hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ ''vườn hoa'' và ''gò hoang''.
Hai câu thực: Vượt lên trên nỗi đau là tấm lòng trân trọng tài,đẹp:
''Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư''.
''Son phấn'' là nhan sắc,hồng nhan của người con gái.''Văn chương'' biểu trưng cho tâm hồn tài năng của Tiểu Thanh.
Hai câu luận: Khẳng định nàng là người nghệ sĩ sáng tạo giá trị văn hóa, đó là tầm nhìn mới mẻ giàu tính nhân văn của đại thi hào:
''Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư''
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về số phận con người trong xã hội phong kiến.
''Cổ kim hận sự'' là nỗi hờn hận từ xưa đến nay, hận về sự bất công của số phận long đong lận đận.
Hai câu kết: Tấm lòng bao la và trái tim cao cả của nhà thơ là khởi nguồn cảm xúc cao quý, vẻ đẹp nhân văn, tính sâu sắc:
''Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như''
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Câu hỏi tu từ được Nguyễn Du dùng đến như một câu tự hỏi mình: Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, người đời ai khóc Tố Như chăng. Câu hỏi này như diễn tả được khao khát của Nguyễn Du.
3. Kết bài
Làm nên sức hấp dẫn không chỉ ở chữ tâm mà còn ở chữ tài.
Bài thơ thành công trong việc sử dụng phép đối, khả năng diễn đạt gợi hình gợi cảm, ẩn dụ, tính triết lí sâu sắc.
Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí
Bài làm tham khảo
''Đọc Tiểu Thanh kí'' là đứa con tinh thần mà đại thi hào Nguyễn Du đã thai nghén, gửi vào trong đó những cung bậc cảm xúc mãnh liệt thăng hoa. Bài thơ''Đọc Tiểu Thanh kí'' được khơi nguồn cảm hứng từ số phận bị kịch của người con gái tài hoa mà bạc mệnh. Năm mười sáu tuổi làm vợ lẽ, bị người vợ cả ghen tuông nên đã ép nàng ở một mình trên núi Côn Sơn, cạnh Tây Hồ. Buồn đau và cô độc, Tiểu Thanh sinh bệnh và mất năm mười tám tuổi. Trong những tháng ngày sống cô độc, Tiểu Thanh làm bài thơ bộc lộ nỗi niềm tâm sự. Nhưng khi nàng mất rồi, người vợ cả vẫn không thôi ghen tức, cho đốt hết tập thơ của nàng, may mắn thay vẫn còn xót lại vài bài. Người đời gọi đó là phần dư cảo, Nguyễn Du đọc được cảm thấy xót thương cho số phận của nàng nên đã viết ra bài thơ này.
Nỗi đau đớn, xót xa của Nguyễn Du trước sự lụi tàn của cái đẹp, của thân phận con người, đặc biệt là thân phận bi kịch của Tiểu Thanh – người con gái tài hoa bạc mệnh. Tác phẩm là tiếng nói đau đời, thương mình, căm phẫn trước những bất công, phi lí trong cuộc đời:
''Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư''
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tắc, làm giảm đi phần nào sự xúc tích của câu thơ chữ Hán.Mất chữ ''tẫn, độc'', Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự biến đổi của không gian để nói lên cảm nhận về sự biến đổi của cuộc đời. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tượng trưng. ''Tây Hồ hoa uyển'' vườn hoa Tây Hồ gợi cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh, nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ ''vườn hoa'' và ''gò hoang''. Dường như trong cảm quan của Nguyễn Du những biến thiên của trời đất đều khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm '' Bãi bể nương dâu '' ta từng biết trong Truyện Kiều:
''Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng''
Câu thơ mở đầu như tiếng thở dài, não ruột. Tây Hồ khi xưa là thắng cảnh với ''hoa uyển''rực rỡ sắc màu. Nhưng giờ đây nó chỉ còn là chứng tích, là một bãi đất hoang mà thôi. Từ ''thành khư'' gợi một gò hoang cũ kĩ, hoang tàn đổ nát. Cái hữu hình của quá khứ trở thành cái vô hình của hiện tại.Cái đẹp huy hoàng bị thay thế bởi cái đẹp toàn diện. Từ ''tẫn'' mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối, tất cả đã thay đổi hết, không còn dấu vết. Phép đối ''quá khứ – hiện tại'' kết hợp với chữ ''tẫn'' đã phác họa sự đổi thay đến tàn khốc của Tây Hồ theo thời gian. Trước sự biến đổi tàn khốc ấy, tác giả cảm thấy xót xa. Sự thay đổi của Tây Hồ cũng như sự thay đổi khôn cùng của số phận trước bàn tay của tạo hóa, dường như cuộc đời của Tiểu Thanh là mình chứng cho quy luật nghiệt ngã ấy. Cảnh vật đổi thay, con người cũng lãng quên cái đẹp. Đây là cảm hứng nhân đạo phổ biến trong văn học Trung Đại. Cảm hứng này cũng được Bà Huyện Thanh Quan nói đến:
''Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương''
Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, trong lòng thi nhân trào dâng nỗi đau xót ngậm ngùi. Trong câu thơ thứ hai, bản dịch thiếu mất chữ ''độc'' là cô độc, ''điếu'' là viếng. Nếu chữ ''thổn thức'' nhấn mạnh về tâm thế, đó là nỗi cô đơn. Độc là một mà nhất cũng là một. Nếu nhất là từ chỉ số lượng thì ''độc'' lại gợi nỗi niềm cô độc, lẻ loi. Câu thơ cho thấy hoàn cảnh người chết và người đi viếng đều rất cô đơn. Ở số phận nào đó,hai con người không quen biết ấy vô tình đến với nhau trong phút ''Tri ngộ tâm giao''. Cái thổn thức của Nguyễn Du cất lên không chỉ ở lòng thương mà chính là sự đồng điệu tâm hồn bởi ''Thơ là những điệu hồn đi tìm tâm hồn đồng điệu''. Điều đó tạo nên sự ứng nghiệm giữa âm – dương, xưa và nay, muôn đời là vậy. Người nghệ sĩ đa mang không khóc thương cho cái vẹn tròn, đầy đặn mà xúc động cho cái dở dang. Tiếng khóc ấy bắt nguồn từ lòng thương, sự đồng cảm từ tiếng nói tri âm, là hiện tượng cái đẹp đi tìm cái đẹp, một lòng đau tìm đến một lòng đau.
Cảm xúc mãnh liệt ấy còn là câu chuyện về nàng Tiểu Thanh trở thành căn nguyên,tiền đề khơi dậy cảm xúc của Nguyễn Du. Vượt lên trên nỗi đau là tấm lòng trân trọng tài, đẹp:
''Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư''.
Nhà thơ mượn hình ảnh son phấn và văn chương để nói và gợi tả nỗi đau đớn cả về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh. ''Son phấn'' là nhan sắc,hồng nhan của người con gái. ''Văn chương'' biểu trưng cho tâm hồn tài năng của Tiểu Thanh.Nội dung hàm chứa hai cách hiểu khác nhau. Các hiểu thứ nhất: son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Văn chương không có thần chắc vẫn phải đau đớn khi bị đốt dở. Son phấn, văn chương là chủ thể tự thương, tự hận. ''Son phấn,văn chương'' có thể hiểu là đối tượng của niềm thương tiếc, bận lòng của người đời. Son phấn như có thần sau khi chết, người ta vẫn còn thương tiếc. Văn chương có số mệnh gì mà làm cho người ta phải bận lòng. Nhưng dù cách hiểu như thế nào vẫn gặp nhau ở một điều thật giản dị : Son phấn,văn chương không hề chết, hoặc cái chết chưa phải sự kết thúc, không bao giờ là dấu chấm cuối cùng. Cách nhân cách hóa trong câu thơ khiến cho cái đẹp ''son phấn, văn chương'' đi đến cái trường tồn vĩnh cửu. Chứng cớ là cái phần còn lại vẫn dược người đời nhắc nhở, linh hồn vẫn xanh tươi ''Thác là thể phách ,hồn là tinh anh''. Cái chết đi chỉ là thể xác, cái không chết là tinh thần tinh anh. Câu thơ không chỉ ca ngợi tài, sắc mà còn gián tiếp lên án tố cáo xã hội phong kiến bất công chà đạp lại cái tài đẹp, không biết trân trọng. Nguyễn Du đã từng nói:
''Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần''
Những bài thơ lớn bao giờ cũng gửi gắm chiều sâu triết lí nhân sinh về cuộc đời. Đằng sau những đau đớn, cảm thông cho bi kịch cuộc đời Tiểu Thanh. Nhà thơ đặt ra câu hỏi cho thời đại, gửi gắm triết lí sâu sắc về bi kịch của giai nhân, tiếng lòng khao khát bạn tri âm gửi cho hậu thế. Trân trọng, ngợi ca tài sắc của Tiểu Thanh. Khẳng định nàng là người nghệ sĩ sáng tạo giá trị văn hóa, đó là tầm nhìn mới mẻ giàu tính nhân văn của đại thi hào:
''Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư''
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về số phận con người trong xã hội phong kiến. Tiếng khóc của Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh cũng chính là tiếng khóc nhà thơ dành cho người tài hoa bạc mệnh. ''Cổ kim hận sự'' là nỗi hờn hận từ xưa đến nay, hận về sự bất công của số phận long đong lận đận. Đó là bi kịch lớn khó có thể hỏi trời, trời cũng không thể giải đáp. Như xuyên thấu lịch sử với vết thương còn rỉ máu. Rõ ràng bế tắc ấy không chỉ riêng ai, đó là bế tắc cả thời đại. Vì vậy con người phải cam chịu và chấp nhận mà thôi. Câu thơ thể hiện quan niệm tiến bộ, mới mẻ của Nguyễn Du trong việc xóa bỏ tư tưởng thiên mệnh. So với Truyện Kiều trước đây ông luôn khẳng định những đau đớn của con người đều do trời:
''Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao''
Sự bế tắc của thời đại cũng được Chế Lan Viên viết về cái thuở ông cha, người đương thời:
''Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời,
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá''
Đập cánh tay vào cửa cuộc đời để tìm lối ra, sự giải thoát. Nguyễn Du không phải người đầu tiên nhưng nỗi đau của ông đặc quánh lại. Ông tự coi mình như những người cùng chịu nỗi oan lạ lùng của người phong nhã ''ngã tự cư''. Nghĩa là sự đồng cảm của Nguyễn Du đã đạt tới mức tri âm. Là người đồng cảnh nên không chỉ hiểu và thương Tiểu Thanh mà con có thể đồng cảm sâu sắc với nỗi niềm tâm sự của nàng. Bằng trái tim giàu tình yêu thương của mình, Nguyễn Du đã xót cho người, thương cho mình và đau cho đời.
Tất cả nỗi đau đời, thương mình cất lên từ cảm xúc chân thành nhất có sức lay động lòng người bao thế hệ. Tấm lòng bao la và trái tim cao cả của nhà thơ là khởi nguồn cảm xúc cao quý, vẻ đẹp nhân văn, tính sâu sắc:
''Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như''
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Câu hỏi tu từ được Nguyễn Du dùng đến như một câu tự hỏi mình: Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, người đời ai khóc Tố Như chăng.Câu hỏi này như diễn tả được khao khát của Nguyễn Du. Ngày hôm nay Nguyễn Du đồng cảm với nỗi đau của nàng Tiểu Thành, sau khi nàng mất là ba trăm năm. Con số ba trăm năm còn nói lên khoảng thời gian đủ để tạo hóa và con người thay đổi. Nguyễn Du khao khát người đời sau có thể đồng cảm, tri âm với Nguyễn Du cũng là tri âm với người tài hoa bạc mệnh. Câu hỏi tu từ hướng tới tương lai nhưng lại thể hiện nỗi buồn thống thiết trong hiện tại. Đặt hai câu kết trong hoàn cảnh sáng tác, người đọc cảm nhận như lời nhắc nhở hậu thế đừng bao giờ quên nỗi oan khuất của người xưa. Số phận của Tiểu Thanh và Nguyễn Du có sự khác biệt. Sau thời của Tiểu Thanh ba trăm năm có Nguyễn Du đơn độc khóc thương nàng. Nhưng sau thời của Nguyễn Du, không cần đến ba trăm năm, chỉ cần hai trăm năm 1965 giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhưng cả nước và dân tộc đã kỉ niệm hai trăm năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du 1766-1965. Có biết bao nhiêu trái tim vẫn luôn hướng về ông, đó chính là tình người soi sáng tình yêu vốn là vẻ đẹp nhân bản của con người.
Bài thơ hàm súc ngắn gọn chỉ vẻn vẹn năm mươi sáu âm tiết nhưng đã giải thích được bi kịch của nàng Tiểu Thanh, đó cũng là bi kịch của Nguyễn Du, một người tài hoa bạc mệnh. Đồng thời bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc dành cho Tiểu Thanh. Đó cũng là sự phẫn nộ trước số phận khổ đau của con người. Qua đó, ông cũng khẳng định sự bất tử của tài năng, nhan sắc. Tất cả làm nên tiếng nói nhân đạo của Đọc Tiểu Thanh kí. Làm nên sức hấp dẫn không chỉ ở chữ tâm mà còn ở chữ tài. Bài thơ thành công trong việc sử dụng phép đối, khả năng diễn đạt gợi hình gợi cảm, ẩn dụ, tính triết lí sâu sắc. Tất cả tạo nên tiếng thơ và sức sống cho tác phẩm. Như Tố Hữu đã từng bày tỏ:
''Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày''.
Đỗ Anh Ngọc
Lớp 10A4 – Trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn, Lai Châu