Soạn bài Xưng hô trong hội thoại 

Xưng hô trong hội thoại được đánh giá chính là một bài học hay trong chương trình Ngữ văn 9. Để có thể học thật tốt bài học ngày hôm nay thì chúng ta hãy đến với bài soạn hôm nay mà Giải Văn mang lại nhé!

Soạn bài Xưng hô trong hội thoại

Bài làm

I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô

Câu 1. Hãy nêu một số từ ngừ dùng để xưng hô trong tiếng Việt và cho biết cách dùng những từ ngữ đó.

Có một số từ ngữ thường dùng để xưng hô trong tiếng Việt đó là:

Tôi – chúng tôi; bạn – các bạn; nó – chúng nó (họ); ta – chúng ta; anh, bác, ông – các anh, các bác, các ông; tao – chúng tao; mày – chúng mày; anh ấy, chị ấy, …

Câu 2. Đọc các đoạn trích sau (trích từ tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài) và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới (SGK, tr. 38, 39).

Các em học sinh cũng hãy xác định từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích sau:

a.

– Dế Mèn – chính là nhân vật kể chuyện xưng “tôi”

– Dế Mèn cũng đã lại xưng hô với Dế Choắt: ta – chú mày trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).

– Nhân vật dế Choắt xưng hô với Dế Mèn: em – anh trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).

b. Ngay chính trong đoạn trích thứ nhất, ta nhận thấy được chính những sự xưng hô của hai nhân vật rất khác nhau. Thông qua đó ta nhận thấy được chính là sự xưng hô cũng bất bình đẳng của một kẻ ở vị thế yếu, đồng thời cũng lại được đánh giá chính là một kẻ ở vị thế mạnh kiêu căng và vô cùng hách dịch. Thế nhưng ngay chính trong đoạn trích thứ hai, sự xưng hô thay đổi hẳn, đó là sự xưng hô bình đẳng.

Thông qua đây ta nhận thấy được lại có một sự thay đổi đó vì tình huống giao tiếp thay đổi, vị thế của hai nhân vật thay đổi. Nhân vật Dế Choắt và Dế Mèn đã coi nhau như người bạn thế rồi cũng chính Dế Choắt khuyên nhủ bản chân thành. Dế Mèn lúc này đây cũng lại vô cùng xúc động, thấm thía, cảm phục bạn.

Xem thêm:  Viết đoạn văn nêu ý kiến của em về việc một bộ phận học sinh hiện nay không tuân thủ việc mặc đồng phục khi đến trường, trong đó có sử dụng câu phủ định

Soạn bài Xưng hô trong hội thoại

II. Luyện tập

Câu 1. Có lần, một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ: “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”. Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?

– Chúng ta: Lại bao gồm cả người nói và người nghe

– Chúng tôi/chúng em: Dường như không gồm người nghe

– Chúng mình: Có thể gồm người nghe hoặc không

Chính cô học viên đã dùng từ xưng hô chúng ta nhầm lẫn, điều này cũng đã lại dễ gây hiểu lầm đó chính là mai cô và giáo sư sẽ làm lễ thành hôn.

Chúng ta cũng lại cần thay từ chúng ta bằng từ: chúng em hoặc chúng tôi.

Câu 2. Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao.

Chính trong các văn bản khoa học, mặc dù có khi tác giả của văn bản chỉ gồm 1 người nhưng người ta vẫn xưng là chúng tôi. Thêm vào đó cũng chính việc dùng chúng tôi trong những trường hợp này là có dụng ý để có thể làm tăng tính khách quan trong ngôn ngữ khoa học và đồng thời cũng lại được thể hiện sự khiêm tốn của tác giả. Cũng có khi lại chính tác giả của văn bản khoa học xưng tôi, khi đó người viết (nói) lúc đó cũng lại muốn nhấn mạnh quan điểm riêng của mình trước một vấn đề nào đó hoặc cũng lại có ý bộc lộ tính chủ quan của ý kiến.

Câu 3. Đọc đoạn trích (SGK, tr. 40). Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và nói với sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?

Ta nhận thấy được chính trong truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường. Thế nhưng cũng chính với cách xưng hô với sứ giả thì dùng: ta – ông. Có thể nói chính cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng được xem chính là một đứa bé kì lạ, khác thường.

Xem thêm:  Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khoa Điềm

Bên cạnh đó ta nhận thấy được dường như cũng chính những điều đó báo trước, đối với người mẹ, Gióng chỉ là một đứa trẻ, nhưng đối với quốc gia, xã hội, Gióng sẽ là một người anh hùng.

Câu 4. Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện (SGK, tr. 40).

Có lẽ rằng cũng chính câu chuyện về một vi danh tướng trên đường đi kinh lí, ghé vào thăm trường cũ. Thế rồi chính vị tướng, tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, là một người có quyền cao chức trọng. Thế nhưng khi gặp lại thầy giáo cũ, dường như cũng đã lại vẫn gọi thầy cũ của mình là thầy và xưng em. Thêm vào đó cũng chính cách xưng hô của chính những vị tướng đối với thầy của mình thể hiện thái độ tôn trọng người đã dạy dỗ mình. Có thể nhận thấy được chính các cách xưng hô của người thầy với vị tướng dường như cũng lại được thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự và đồng thời như cũng lại được thể hiện sự tôn trọng người đối thoại với mình. Thêm vào đó ta nhận thấy được câu chuyện trên khuyên chúng ta phải biết “tôn sư trọng đạo”.

Câu 5. Đọc đoạn trích (SGK, tr. 40). Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác. (Chú ý so sánh: Trước năm 1945, người đứng đầu nhà nước có xưng hô với người dân của mình như vậy không?)

Có thể nói chính trước cách mạng tháng tám 1945, đất nước ta lúc này đây dường như cũng chính còn là một nước phong kiến, thế rồi cũng chính những người đứng đầu nhà nước là vua đồng thời xưng với dân chúng là “Trẫm”. Việc Bác, thì người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, việc xưng “tôi” và gọi dân chúng là “đồng bào”dường như cũng đã tạo ra được cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết, đồng thời tạo sự thân mật giữa người nói với người nghe.

Xem thêm:  Nghị luận xã hội làm thế nào để môi trường sống của chúng ta xanh, sạch, đẹp?

Câu 6. Đọc đoạn trích (SGK, tr. 41,42), chú ý những từ ngữ in đậm. Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua cách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay dổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.

Nhận xét được cách xưng hộ trong đoạn văn thứ nhất cũng lại được thể hiện rõ sự cách biệt về địa vị và cũng chính là cách hoàn cảnh giữa các nhân vật. Nhân vật chị Dậu, người dân thấp cổ bé họng đã thế chính họ dường như cũng đã lại đang thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục. Chính sự xưng hô cháu, nhà cháu – ông. Chính cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền hay cậy thế nên hống hách và việc xưng hô đã thay đổi: ông – thằng kia, mày.

Tiếp đến chính sang đoạn sau, cách xưng hô thay đổi một cách rõ rệt. Nhân vật chị Dậu chuyển sang tôi – ông rồi sang bà – mày. Thông qua đây đó là hành vi thể hiện sự “tức nước – vỡ bờ”, và đó cũng chính là một sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị.

Hi vọng với bài soạn văn Xưng hô trong hội thoại mà giải Văn mang đến cho các bạn học sinh có thêm nhiều điều bổ ích, để học bài tốt hơn.

Chúc các em học tốt!

Minh Minh

Sau đây là một số bài soạn có trong chương trình văn 9, các em có thể tham khảo thêm:

Soạn bài Đoàn Thuyền Đánh Cá

Soạn bài Những Ngôi Sao Xa Xôi

Soạn bài Đồng Chí

Soạn bài Chị Em Thúy Kiều

Soạn bài Bàn Về Đọc Sách

Check Also

thaohuyen8 3713562 310x165 - Bài viết số 2 lớp 9 đề 2: Kể lại giấc mơ gặp người thân xa cách lâu ngày

Bài viết số 2 lớp 9 đề 2: Kể lại giấc mơ gặp người thân xa cách lâu ngày

Tôi đã từng nghe đâu đó một câu nói: “Nhà là nơi bình yên nhất”. …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *