Phân tích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu

Phân tích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu

Hướng dẫn

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe

Dữ răn việc nước, lành dè thân sau

Trai thời trung hiếu làm đẩu

Gái thời tiết hạnh lùm câu trau mình

Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương mà trước hết, quan trọng hơn hết, là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lí, nhân cách con người. Truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ được nhân dân ta – nhất là bà con ở Nam Bộ – yêu thích không phải vì có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tế, mà vì những chi tiết, sự việc, những nhân vật toả sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huân chân thành, thấm thìa. Nội dung đạo lí bao trùm toàn thiên truyện là nhân nghĩa, là trung hiếu, tiết hạnh. Song đây không phải là những từ ngữ khô khan trong khuôn khổ phong kiến cổ hủ, nặng nề.

Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức nhân dân, là căn cốt, gốc rễ để trau dồi rèn dũa con người. Vì vậy, vào đầu tác phẩm – ở đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa. Đó là Lục Vân Tiên – chàng trai dũng cảm, có lòng “nhân” sấn sàng làm việc “nghĩa”. Vân Tiên vốn con nhà thương dân, nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thí. Vậy mà gặp cướp. Không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quây nhiễu nhân dân. Trước mắt chàng, bày ra một nghịch cảnh: dân thì “than khóc tưng bừng, đều đem nhau chạy vào rừng lên non”, bọn cướp thì “xuống thôn hương, thấy con gái tốt qua đường bắt đi”. Thế là, sau một lời hứa ngắn gọn: “Tôi xin ra sức anh hào…”, Lục Vân Tiên nhanh nhẹn “ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy”, xông thẳng vào giữa bọn cướp. Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp “mặt đỏ phừng phừng”, dữ tợn như một con ác thú. Chúng “truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng”. Lực lượng thật là quá chênh lệch. Bên kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến. Bên này chỉ… một chàng trai dũng cảm với lời hứa chân thành “Cứu người ra khỏi lao đao buổi này”, với vũ khí giản dị “cây gậy bên đàng”. Vậy mà, chàng không chút nao núng:

Vân Tiên tả đột hữu xông

Khác nào Triệu Tử mở vòng Dương Dang

Nhà thơ không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một câu so sánh và dăm ba từ đặc sắc: “tả đột hữu xông, khác nào Triệu Tử…” Đúng là một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Dương Dang, Trường Bản. Ngày xưa Triệu Tử Long chiến đâu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dầu sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi trung thành. Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, xuất phát từ lòng nhân. Giản dị, vô tư mà trong sáng cao đẹp biết bao. Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh, diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện. Do đó, nó vô địch:

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng “- văn lớp 9

Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giáo, tìm đàng chạy ngay

Phong Lai trở chẳng kịp tay

BỊ Tiên một gậy thác rày thân vong…

Lời thơ chân chất, có chỗ thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc Lục Vân Tiên, chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc, nhưng cảm hứng tác giả vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy kể chuyện vừa rung đùi thích thú, gửi tới bạn đọc một lẽ phải nhỡn tiền: người có lòng nhân, biết làm việc thiện sẽ thắng. Kẻ độc ác bất nhân sẽ thảm bại như thế tất. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm được một việc “nghĩa”, một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.

Tự nguyện dân thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ… tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi. Lục Vân Tiên không chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở như vẫn hoảng sợ, Vân Tiên động lòng thương, an ủi: “Ta đã trừ dòng lâu la”. Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên tuổi, họ, gia cảnh, đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” song tất cả đều chân thành, dung dị rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga – nạn nhân được chàng cứu giúp – kể lể than thở, ca ngợi và tha thiết muốn báo ân, thì:

Vân Tiên nghe nói liền cười

“Cái cười đáng yêu, đáng kính làm sao. Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười quần chúng rộng lượng, đều ở trên môi Lục Vân Tiên” (Xuân Diệu – Đọc thơ văn Nguyễn Đình Chiểu). Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời thơ, cũng rất đáng yêu:

Làm (fn há dễ trông người tra ơn

Nay đà rõ đặng nguồn cơn

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?…

Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôn na giản dị. Nó cất lên từ một cõi lòng chất phác. Chất phác là cái bên ngoài, cái vỏ xù xì, thô nhám. Nhưng phía bên trong, phần ruột thì cao đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh rất hào hiệp, vô tư của một lớp người, một thế hệ con người. Chúng ta hiểu lời Lục Vân tiên như thế nào? Trước hết, chàng khẳng định việc mình làm là hoàn toàn “tự nguyện”. Gọi là ơn cũng được. Hay nên xem đó là việc “ơn nghĩa”. Làm việc “ơn nghĩa” thì không nên đợi trả ơn, tính hơn thiệt, lời lãi… vì “ơn nghĩa” là lẽ thông thường của người sông có văn hóa, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy nghĩa khí, lấy chữ nhân, lòng nhân, làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động.

Xem thêm:  Hãy nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở

Chàng đã hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Kiều Nguyệt Nga – cũng như mọi người “rõ đặng nguồn cơn” – nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc tới các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói: “Kiến ngãi bất vi vô dũng dã”. Nghĩa là: Thấy việc nghĩa mà không làm là hèn nhát. “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. “Phi anh hùng” là kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sông của mình. Đó là lẽ sông của biết bao hiền nhân, quân tử ngày xưa, bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi lời Từ Hải, nhân cách của Từ Hải trong Truyện Kiều: “Anh hùng tiếng đã gọi rằng. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Thế đấy, Lục Vân Tiên là một chàng trai dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ hảo hán của một thời.

Còn Nguyệt Nga, nàng cũng là một cô gái biết trọng nghĩa tình. Sau khi được cứu thoát tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói những lời đẹp nhất để cám ơn ân nhân:

… Lâm nguy chẳng gặp phải giải nguy

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi

Trước xe quân tử tạm ngồi

Ngõ cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa…

Nói “tiết trăm năm” là nói việc trọng của cả một đời người. “Lạy rồi sẽ thưa” cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Một cô tiểu thư quen được yêu chiều, được bảo vệ, che chở mà xử sự như thế, hạ mình như thế đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư – con quan tri phủ – nhưng nàng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân. Đạo đức ấy là chữ “ân”, chữ “nghĩa”. Do đó, sau những phút giao cãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có gì như lúng túng, ngượng ngập, nhưng chất phác, “nạbế thánh thót bên tai giọng nói của cô gái miền Nam” (Xuân Diệu)

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về câu “Uống nước nhớ nguồn” (lớp 9)

Gặp đây đương lúc giữa đàng

Của tiền chẳng cỏ, bạc vàng cũng không.

Tưởng câu báo đức thù công

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi

Nguyệt Nga nói tới “của tiền, vàng bạc” để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói “báo đức thù công” – đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở “Lấy chi cho phỉ tấm lòng…” để giãi bày sự lúng túng về tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó, Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn.

Nhưng chàng từ chối. Nàng băn khoăn day dứt không nguôi. Chỉ đến khi thấy “Vân Tiên nghe nói liền cười…” an ủi: “Đó mà chữ thuỷ chung, lựa lời đây phải theo cùng làm chi”, Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh, tuổi tên của vị ân nhân.. Cuối cùng, nàng đã rút cây trâm cài đầu tặng Vân Tiên làm kỉ vật, cũng là gửi gắm một tín hiệu của tình yêu thuỷ chung sau này. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ quê hương Nguyễn Đình Chiểu.

Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Lục Vân Tiên là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ.

Vân Tiên, Văn Tiên, Vân Tiên

Cho tôi một tiền, tôi kể truyện thơ

Những nghệ sĩ hát rong đồng bằng sông cửu Long thường giáo đầu bài hát Lục Vân Tiên bằng câu ca như thế. Ngay sau đó, buổi diễn xướng dân gian được đông đảo bào con hưởng ứng, quây tròn quanh người kể chuyện. Người diễn, người nghe giao hoà, say đắm hàng giờ, hàng buổi, một trong những đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. Yêu thích không phải vì văn chương chải chuốt, nghĩa lí thâm trầm như Truyện Kiều, mà trước hết vì phẩm chất tốt đẹp của hai con người, vì tấm lòng nhân nghĩa dung dị của nhà thơ, sau nữa là vì nghệ thuật ngôn từ, giọng điệu phóng khoáng ở mỗi trang thơ. Tất cả những nét riêng, những vẻ đẹp ấy của tác phẩm phù hợp với phong cách sông, với ước mơ khát vọng giản dị mà trong sáng, cao cả của nhân dân.

o Nhậnxét

Bài viết đã tập trung giới thiệu được sự tương ngộ của hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Bài viết đã góp phần khắc hoạ thành công vẻ đẹp hào hiệp trọng nghĩa khinh tài của Lục Vân Tiên, sự đoan trang ơn nghĩa của Kiều Nguyệt Nga.

Theo Tapchivanhoc.com

Check Also

bieu cam ve mai truong than yeu 310x165 - Bài viết số 2 lớp 9 đề 2: Kể lại giấc mơ gặp người thân xa cách lâu ngày

Bài viết số 2 lớp 9 đề 2: Kể lại giấc mơ gặp người thân xa cách lâu ngày

Tôi đã từng nghe đâu đó một câu nói: “Nhà là nơi bình yên nhất”. …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *