“Bếp lửa” là câu chuyện về quãng đời thơ ấu của tác giả với bà. Qua bài thơ, Bằng Việt đã nói lên cảm xúc của mình đối với người bà thân yêu cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm cả một đời người. Trong chương trình ngữ văn lớp 9, ta sẽ bắt gặp đề bài chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện. Để làm bài tập này, chúng ta sẽ đóng vai người cháu – người kể chuyện chân chính, giới thiệu hoàn cảnh ở nơi xa nhớ về bà qua sự gợi lên về mùi khói bếp, nhớ và kể lại những sự kiện chính theo thứ tự trong bài thơ và cuối cùng là cảm xúc của người cháu. Dưới đây là bài làm cụ thể của đề bài này mong rằng sẽ giúp đỡ được cho các bạn trong cách lập ý và làm bài.
BÀI VĂN MẪU SỐ 1 CHUYỂN BÀI THƠ “BẾP LỬA” THÀNH CÂU CHUYỆN.
Nga 1963.
Ngoài trời, tuyết rơi trắng xóa. Đường phố vắng tanh, không một bóng người. Thỉnh thoảng chỉ nghe vang vọng đâu đây tiếng “cờ rộp, cờ rộp” của chiếc xe ngựa chạy vội trong đêm. Mọi nhà đều đã thắp đèn đi nghỉ. Chỉ còn le lói vài ánh đèn vàng mờ rồi bỗng vụt tắt. Tôi vẫn chưa ngủ. Cái buốt giá của mùa đông thấu tận trong tâm can khiến tôi bất giác nhớ lại những ngày tháng ấm áp của tuổi thơ. Bên chiếc lò sưởi bập bùng ánh lửa, tôi chợt nhớ đến bà, nhớ đến những hồi ức có bà ở bên, bên bếp lửa nồng đượm tình yêu thương.
Lim dim đôi mắt, tôi nhớ lại cái năm tôi lên bốn tuổi. Thời kì này, cái đói, cái thiếu thốn hoành hành khắp nơi. Ngân khố nhà nước cũng chỉ vẻn vẹn có vài đồng. Người Việt Nam quen gọi cái sự kiện kinh hoàng này là “nạn đói năm 45”. Cái đói triền miên dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Số người chết vì đói gấp rất nhiều lần số người chết vì bệnh tật. Những người còn lại sống vật vờ như những bóng ma trong đêm. Bố tôi đi đánh xe ngựa với con ngựa gầy còm, ốm yếu, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Tuổi thơ của tôi không phải là vòm trời cổ tích cao rộng và nhuốm màu lãng mạn của những phép màu kì diệu, mà đúng hơn khói bếp đã bao trùm ấn tượng suốt khung trời tuổi thơ. Tôi chợt thấy sống mũi của tôi xộc lên một thứ gì đó cay nồng khiến cho hàng lệ bất giác tuôn rơi. Dư vị một thời thơ bé vẫn còn ám ảnh đâu đây, nghĩ lại vẫn thấy xót thương trong hồi ức về bà.
Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, ba mẹ tôi phải đi ra chinh chiến ngoài mặt trận. Họ gửi tôi cho bà chăm sóc. Suốt thời gian đó tôi cùng bà nhóm lửa. Tám năm chưa phải là dài so với một đời người nhưng đối với tôi, nó như kéo dài đến triền miên, vô tận bởi tám năm ấy chỉ hai bà cháu tôi nương tựa vào nhau. Bà thường ôm tôi vào lòng, bên chiếc bếp bập bùng ngọn lửa, bà kể cho tôi những câu chuyện hồi bà còn ở Huế. Vào những ngày hè rực nắng, tiếng chim tu hú kêu tha thiết nhưng nghe như khắc khoải, giục giã cả một khoảng trời. Mỗi khi nghe tu hú kêu, tôi thường đứng lặng hàng giờ, tôi nói với cánh chim ngoài đồng kia: “Tu hú ơi! Sao mày không đến ở cùng bà, sao cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa kia vậy?”. Ba mẹ tôi đi rồi nên việc chăm sóc, dạy dỗ tôi đều nhờ cả vào đôi bàn tay bà. Bà bảo tôi những điều hay lẽ phải, bà dạy tôi những bài học bổ ích. Mỗi việc làm của bà đều thấm đượm tình yêu thương. Để có thể học ở Trường Đại học Tổng hợp KF như bây giờ có lẽ cũng đều nhờ công sức bà dạy dỗ cho tôi. Nghĩ vậy lòng tôi lại dâng lên lòng nhiệt huyết, tôi sẽ cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt sao cho xứng đáng với những gì bà mong đợi.
Chiếc lò sưởi bỗng cháy lên dữ dội. Cái ngọn lửa đó đưa tôi về cái năm giặc đốt phá làng cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tháng đi tản cư, cả dân làng trở về lầm lụi. Hàng xóm bốn bên giúp hai bà cháu tôi dựng lại túp lều tranh nhỏ để có chỗ che nắng che mưa. Gian khổ là thế, vậy mà bà vẫn vững lòng. Tôi vẫn còn nhớ như in câu nói của bà “Mày có viết thư cho ba mẹ chớ có kể này kể nọ, cứ bảo là nhà vẫn được bình yên”. Hồi đó tôi chưa đủ chín chắn để có thể hiểu được câu nói của bà. Tôi chỉ thắc mắc tại sao bà lại nói dối trong khi bà luôn dạy tôi phải luôn trung thực. Sau này tôi mới hiểu và cảm thấy xúc động vô cùng khi biết đó chính là hành động hy sinh âm thầm của bà. Bà đã nhận về mình tất cả những mất mát, khổ đau để cho ba mẹ tôi có thể yên tâm đánh giặc cứu nước. Tấm lòng của bà thật bao la, độ lượng làm sao!
Cơ hàn rồi giặc giã… lại vẫn chỉ có hai bà cháu tôi sớm tối. Tôi thương bà lắm nhưng chẳng biết làm thế nào cho bà đỡ khổ. Rồi sớm rồi chiều, ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa tình thương bà dành cho tôi, của niềm tin vào một ngày chiến thắng, các con sẽ trở về đoàn tụ. Suốt một đời gian nan, vất vả, bà tôi tần tảo chăm sóc cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi với mái tóc bạc phơ luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm cả lòng tôi, khơi gợi những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.
Giờ đây tôi đã trưởng thành, được Tổ Quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Tôi đã được khám phá biết bao điều mới mẻ nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều ở quê nhà. Bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời tôi đã được nhen lên bởi ngọn lửa ấy. “Bà ơi, giờ đây bà đã đi xa, cháu chẳng bao giờ có thể gặp lại bà được nữa, nhưng hình ảnh bà sẽ mãi như ngọn lửa bà nhen, hừng hực cháy trong trái tim cháu để cháu có thêm động lực, để bước tiếp trên con đường tri thức”
Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Tôi đã mơ một giấc mơ thật đẹp. Tôi lại trở thành cậu bé năm ấy và bà hiện lên thật đẹp, hiền từ và nhân hậu như bà tiên trong câu chuyện cổ tích…
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CHUYỂN BÀI THƠ “BẾP LỬA” THÀNH CÂU CHUYỆN
Một buổi sáng tháng 9 tại Kiev trong màn sương trắng giăng phủ. Một lớp sương mờ mờ bên ngoài ô cửa kính, vắt vẻo trên cành cây, luồn lách qua mỗi gầm ô tô. Những làn sương mỏng manh như màu khói, thoang thoảng dư vị của quá khứ một thời. Xa xa, một màu hồng nhen nhóm trong đám khói của kí ức… Là bếp lửa của bà tôi. Là bà tôi …
Khói và mùi khói- những thứ đã quá quen thuộc với tuổi thơ của một đứa trẻ như tôi, ngay từ khi mới lên bốn tuổi. Khói của bếp lửa bà nhen lên mỗi ngày trong căn bếp nhỏ hẹp, khói ở ngoài kia xộc vào trong nhà. Nếu chẳng là khói, tại sao không khí ngoài kia lại âm u và xám xịt đến thể?
Những năm ấy, năm của 1945 đói mòn đói mỏi. Trẻ con không dám và cũng không được cho ra ngoài bởi những cái thây đang chất đầy ngoài đường. Mặt họ hốc hác, tiều tùy, chỉ có xương đang lả đi, đang bất động vì không thể hoạt động được nếu chỉ có không khí mà sống. Tôi chỉ dám đứng gần đó, tựa cửa đợi bố về. Đó là một cái bóng khô rạc, gầy gò cũng chẳng khác gì con ngựa mà bố đang đi cả. Những con người chẳng một chút quen biết kia hay chính người thân thích tôi vẫn đang tựa cửa hằng ngày đợi đây, liệu họ có còn sống không, ngày mai tôi có nhìn thấy họ nữa không?… Và mùi khói kia lại tràn về. Không còn gì khác trong kí ức của một đứa trẻ bốn tuổi non nớt, chỉ là một mùi khói, một làn khói. Những làn khói đủ sức làm sống mũi của tôi bây giờ vẫn còn cay.
Ngồi nơi đây, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng tu hú. Tiếng tu hú vọng về từ một nơi nào đó, rất xa. Có lẽ là từ kí ức, kí ức của tám năm ròng cùng bà nhóm lửa. Khi ấy, ngồi nơi căn bếp chật hẹp, tối tăm, tiếng tu hú gợi mở tôi về cả một thế giới mênh mông, về những điều tốt đẹp và hạnh phúc nhưng lại rất đỗi xa vời. Những khi ấy, bà vẫn thường bế tôi vào lòng. Đôi bàn tay chai sần nhẹ nhàng xoa đầu tôi, bà kể tôi nghe những ngày ở Huế. Bà kể tôi nghe về những tháng năm dân quân cùng nhau hoạt động, về cái ngày mà bà bế tôi nghe tin Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, cái ngày mà có nước Việt Nam, có Huế độc lập.
Tiếng tu hú vẫn tha thiết, vẫn khắc khoải trong nỗi nhớ mênh mông của đứa trẻ dành cho cha mẹ. Bà bảo họ đang đi công tác, đang làm việc cho Bác Hồ, cho cuộc sống tốt đẹp hơn của hai bà cháu. Vậy là tuổi thơ của tôi gắn bó với bà còn nhiều hơn cả cha mẹ. Bà kể chuyện tôi nghe, bà dạy tôi biết làm những công việc trong nhà, biết tự lập. Bà giúp tôi chắp cánh đến gần với những con chữ, đến với tương lai. Những kí ức ấy vẫn còn tươi rói, như mới hôm qua, như vừa mới đây thôi. Rồi hình ảnh bà một mình. Hình ảnh người là lầm lũi nhóm lửa mỗi sớm mai một mình làm tôi bỗng nhói đau. Tiếng tu hú vẫn văng vẳng không nguôi. Những con người cô đơn lại sống cuộc sống đơn độc trong một cuộc đời lầm lũi của mình, không thể gặp nhau, không thể cùng hòa làm một…
Dòng kí ức xoay chuyển, chỉ còn một màu hồng rực cháy khắp nơi. Không có những căn nhà, chẳng có những mái rơm rạ, chỉ là một ngọn lửa đang cháy điên cuồng. Những ngọn lửa của giặc cháy lên cùng với nỗi đau và tức giận của những con người nơi đây vừa mới mất ngôi nhà thân yêu nhất của mình. Những khuôn mặt nhem nhuốc bước đi uể oải, tuyệt vọng từ đám tro tàn đi ra. Nhưng rồi, ngay sau đó lại là những nụ cười ấm áp. Họ hỏi thăm nhau, họ sẻ chia cho nhau, họ giúp bà cháu tôi dựng lại một túp lều mới, đong đầy tình yêu thương con người. Lúc ấy, bà vẫn nhớ mà dặn tôi rằng:
-Bố ở chiến khu còn nhiều chuyện phải lo, đừng nói gì khiến bố bận lòng. Không phải bà cháu mình vẫn bình an, và có cả một căn nhà mới rồi sao? Cứ viết thư bảo nhà vẫn được bình yên, nghe!
Nhìn khuôn mặt hiền từ với nụ cười lạc quan của bà, tôi chỉ biết gật đầu. Bà có phải tiên, phật hay không mà sao mà lại đẹp như vậy!
Sớm rồi chiều, bếp lửa ấy vẫn bập bùng mãi không tắt. Từ năm này qua năm khác, bàn tay ấy vẫn đều đặn nhóm lửa. Những củ khoai củ sắn trong những năm đói rét, trong những năm bom đạn, lửa thiêu vẫn đến tay đứa cháu, vẫn đến tay mọi người. Là khoai sắn ấy nuôi tôi lớn hay chính tình yêu thương của bà ủ trong bếp hồng, là khoai sắn hay chính tình làng xóm tạo nên niềm vui nơi xóm nhỏ? Có lẽ chính là tấm lòng của bà, là bàn tay người nhóm lửa, là đức hi sinh muôn đời của người phụ nữ Việt Nam.
Nơi tôi ở được thắp sáng trong ánh đèn điện, được sưởi ấm bên lò sưởi hiện đại, nhưng tôi vẫn thấy lạnh. Dẫu khói ở trăm nhà nhưng chẳng có điều gì có thể làm cay mắt tôi như ngọn khói năm ấy. Chẳng có món nào ngon như củ khoai ấy, lời nói nào hay như những lời mắng yêu của bà… Liệu lúc này, trong một buổi sớm mai, bà đã nhóm bếp chưa?
Nguồn Internet