Đề bài: Phân tích vẻ đẹp và số phận bi kịch của nhân vật Vũ Nương
Bài Làm
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
<Truyện Kiều – Nguyễn Du>
Bạc mệnh là số phận chung của những người phụ nữ sống dưới xã hội phong kiến. Đó cũng là chủ đề khá quen thuộc trong thơ ca dân tộc.”Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một trong những câu truyện nói lên điều đó. Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương – một người con gái đẹp người, đẹp nết nhưng lại phải chịu một số phận bi kịch, lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng.
Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, hiền hậu, chung thủy và biết sống nhún nhường theo lễ giáo phong kiến. Nhà văn Nguyễn Dữ đã dùng những lời lẽ đẹp nhất khi nói về nàng “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Người con gái quê ở Nam Xương ấy cũng là một người khéo léo trong giao tiếp với mọi người, biết kính trên nhường dưới “nàng luôn giữ gìn khuôn phép, chưa từng sảy ra thất hòa”. Vũ Nương luôn yêu thương chồng hết mực, lo lắng cho người chồng chuẩn bị tòng quân, nàng nói “chàng đi chuyến này, thiếp không đeo được ấn phong hầu trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo hai chữ bình yên”. Ai có chồng đi lính cũng mong lập công danh hiển hách nhưng với Vũ Nương thì không, nàng không hề màng công danh võng lọng mà chỉ mong người phu quân của mình bình yên trở về. Bởi lẽ, nàng đã lường trước và cảm thông được những khó khăn, vất vả trên con đường trinh chiến mà chồng sẽ trải qua “giặc cuồng còn lẩn lút, quân chiều còn gian lao”. Mặc dù sống dười chế độ phong kiến, là phận gái không được đi học đàng hoàng như nam giới nhưng Vũ Thị Thiết lại rất hiểu đạo lý. Nàng nói những lời tiễn biệt rất ân tình, xúc động và đằm thắm “Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn vàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Lời nói ấy của Vũ Nương khiến cho mọi người “ứa hai hàng lệ”. Trong lời nhắn gửi ấy là cả một tấm chân tình, cả một tình yêu thương vô bờ bến đối với người chồng của mình. Tình yêu ấy cùng nỗi nhớ thương chờ đợi của nàng cứ dài theo năm tháng. Sự thủy chung ấy cũng chính là phẩm chất chung của những người chinh phụ xưa. Không chỉ nết na, thủy chung, nàng Vũ nương còn là một người vợ người mẹ đảm đang, một người con dâu vô cùng hiếu thảo. Chàng Trương Sinh – phu quân của Vũ Nương đi chưa được bao lâu thì nàng sinh con. Nàng vừa chăm sóc cho người mẹ già lại vừa lo cho đứa con mọn. Một người phụ nữ hiền dịu, đảm đang ấy giờ trở thành trụ cột trong gia đình, nàng vừa là một người mẹ lại vừa là một người cha, mọi việc trong nhà nàng một tay lo liệu, quán xuyến tươm tất. Bà mẹ già vì nhớ Trương Sinh mà lâm bệnh, “Vũ Nương chạy chữa thuốc thang, lễ thần bái phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Nàng không chỉ lo thuốc thang, lo lễ bái mà còn biết nói những lời ngọt ngào để mẹ chồng vui lòng. Qủa là một người con dâu khéo léo, biết chăm sóc gia đình. Rồi khi người mẹ chồng qua đời nàng lại lo việc “ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ mình”. Tất cả những điều đó càng cho thấy Vũ Nương vừa đẹp người đẹp nết, vừa dịu hiền, khéo léo, đảm đang, mang đầy đủ phẩm hạnh tốt của người phụ nữ chính thống xưa “Công dung ngôn hạnh”.
Tuy là người con gái đẹp người đẹp nết như thế, nhưng Vũ Nương là có một số phận bi kịch đau đớn trước sự ghen tuông vô cớ của người chồng. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, cuối cùng Trương Sinh cũng trở về. Những tưởng gia đình đoàn tụ, Vũ Nương sẽ được sống những ngày hạnh phúc bù đắp những tháng ngày vất vả lo toan. Tưởng rằng sự nhớ nhung xa cách bấy lâu sẽ kết thành sợi dây tơ hồng để họ gắn bó, hiểu và cảm thông với nhau hơn thì ngờ đâu cuộc đời không chiều lòng người, một hồi chuông oan nghiệt vang lên khi Trương Sinh trở về. Khi đứa con không nhận Trương Sinh là cha và nói “Trước đây có một người đàn ông đến vào ban đêm, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Vốn tính đa nghi, Trương Sinh không hề xem xét gì cả đã vội mắng nhiếc vợ cho hả giận. Mặc cho nàng phân trần giải thích người chồng vẫn không nghe. Dù dân làng, hàng xóm có ra sức khuyên can nhưng nỗi ám ảnh về người vợ không chung thủy đã bám chặt vào đầu chàng đến mức không còn đủ tỉnh táo để xem xét sự việc. Vậy là sau bao ngày tháng một mình vất vả chăm lo cho gia đình thì giông tố kéo đến mang theo cái hi vọng đoàn viên hạnh phúc của Vũ Nương. Nàng quá đau đớn và tuyệt vọng khi chồng không hiểu lòng mình, tình cảm vợ chồng gắn bó lâu nay bỗng chốc tan vỡ “Nay đã bình rơi châm gãy, gió tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng xuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”. Đằng sau câu nói của Vũ Nương là cả một sự đau đớn tột cùng, bao nhiêu dòng nước mắt đau thương của nàng. Tấm lòng chung thủy, sắt son của người chinh phụ không được ghi nhận, không được tin tưởng đã khiến nàng không còn muốn sống trên thế gian này. Nàng đã reo mình xuống dòng sông tự vẫn. Và vậy là người con gái với những phẩm chất “công dung ngôn hạnh” ấy đã lấy cái chết để giải nỗi oan ức của mình, chứng minh cho sự trong sạch. Một đêm ngồi trước ánh đèn, con trai chỉ cái bóng của Trương Sinh trên vách và gọi là cha. Lúc này chàng mới biết rằng đã nghi oan cho vợ. Nếu Trương Sinh tìm hiểu ngọn ngành và tin tưởng yêu thương vợ thì nỗi oan đã được giải nhưng tiếc rằng đã quá muộn rồi.Chính sự đa nghi của chồng đã giết chết Vũ Nương.
Qua tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương”, người đọc thấy được một người phụ nữ mang đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp luôn thùy mị, nết na, thủy chung, biết kính trên nhường dưới nhưng lại mang một số phận bi đát. Bi kịch của Vũ Nương cũng là bi kịch của những người phụ nữ sống dưỡi xã hội cũ – cái xã hội phong kiến bất công độc quyền độc đoán đã trà đạp, xô đẩy người phụ nữ khiến họ không được nói lên tiếng nói của mình, phải chịu nhiều oan ức dẫn đến cái chết bi thảm.
Nguồn: Tài liệu văn học