Phân tích đoạn trích Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục văn mẫu lớp 8 tuyển chọn
Hướng dẫn
Đoạn trích Ông Giuốc – đanh mặc lễ phục nói về thói trưởng giả học làm sang của ông Giuốc – đanh, qua những tình huống hài hước tác giả phê phán một bộ phận trưởng giả học đòi làm quý tộc. Anh chị hãy phân tích đoạn trích Ông Giuốc- đanh mặc lễ phụcđể thấy rõ nội dung tư tưởng đó.
I. Dàn ý cho đề bài phân tích đoạn trích Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục
1. Mở bài cho đề phân tích đoạn trích Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục
Đặc biệt trong kho tàng văn học cổ điển thế giới, khi nhắc đến thể loại kịch, cụ thể hơn nữa là hài kịch, người ta không thể không nhắc đến Molie. “Ông Giuốc – đanh mặc lễ phục” chính là một đoạn trích hay trong tác phẩm nổi tiếng của ông “Trưởng giả học làm sang”
2. Thân bài cho đề phân tích đoạn trích Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục
– Cảnh Giuốc-đanh mặc lễ phục là một biểu hiện của thói học đòi lối ăn mặc sang trọng của quý tộc nhưng lại bị bọn phó may lừa lọc và biến thành trò cười.
– Ông Giuốc – đanh muốn học đòi làm sang nên chỉ còn là một thứ hình nộm, một thứ con rối do người khác điều khiển giật dây
– dù đang rất nóng lòng xem sản phẩm của bác phó may mang đến nhưng ông Giuốc – đanh vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra lỗi.
– Ông Giuốc – đanh đã phát hiện hoa trên bộ lễ phục bị may ngược
+ Người thợ may dễ dàng lừa bịp được ông Giuốc đanh nhờ 2 tiếng “quý tộc”
+ Ông Giuốc đanh không những kém hiểu biết mà còn thích danh giá, sang trọng, học đòi theo lớp quý tộc nhưng thực chất không hiểu quý tộc ra sao.
– Ông Giuốc – đanh phát hiện bác phó may ăn bớt vải–> Vẫn bị lừa bịp vì muốn học đòi làm trưởng giả
– Nổi bật lên một tính cách rất đáng bị phê phán: thói học đòi làm sang của hạng người trưởng giả. Tính cách ấy biến con người thành một thứ trò hể mà chính con người – hể kia không tự biết
3. Kết bài cho đề phân tích đoạn trích Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục
Ông Giuốc đanh mặc lễ phục nhằm phê phán thói trưởng giả học làm sang, giá trị của đoạn trích duy trì được sức nóng đến tận ngày nay.
II. Bài tham khảo cho đề bài ” phân tích đoạn trích Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục”
Nói đến Toán học, người ta không thể không kể đến Talet, Pitago,… Nhắc đến Triết học, nhân loại không thể quên được những tên tuổi nổi tiếng như Socrates, Platon,… Văn học cũng vậy, cũng có những nhân vật được coi là cội nguồn sản sinh ra nền văn học thế giới. Đặc biệt trong kho tàng văn học cổ điển thế giới, khi nhắc đến thể loại kịch, cụ thể hơn nữa là hài kịch, người ta không thể không nhắc đến Molie. “Ông Giuốc – đanh mặc lễ phục” chính là một đoạn trích hay trong tác phẩm nổi tiếng của ông “Trưởng giả học làm sang”.
Tác phẩm Trưởng giả học làm sanglà một vở hài kịch năm hồi, có xen những màn ca múa phụ họa nên gọi là vũ khúc hài kịch. Nội dung của nó là Giuốc-đanh tuổi ngoài bốn mươi, thuộc tầng lớp thị dân phong lưu, giàu có. Nhờ bố mẹ ngày trước làm nghề buôn len dạ tích luỹ được khá nhiều tiền nên giờ đây, Giuốc-đanh muốn trở thành quý tộc để được bước chân vào xã hội thượng lưu. Bắt chước những người cao sang, lão thuê thầy về dạy cho mình đủ các môn như âm nhạc, kiếm thuật, triết lí và cả cách ăn mặc, nói năng… Giuốc-đanh mù quáng và nhẹ dạ đã bị lừa bịp một cách dễ dàng bởi các ông thầy rởm, bác phó may vụng về nhưng ba hoa, chú thợ phụ lẻo mép và cả gã bá tước sa sút Đô-răng-tơ.
Đoạn trích Ông Giuốc Đanh mặc lễ phục thuộc lớp kịch kết thúc của hổi hai của vở kịch này với nội dung là Giuốc-đanh dốt nát, quê kệch lại muốn học đòi làm sang nên đã bị nhiều kẻ lợi dụng moi tiền, cảnh Giuốc-đanh mặc lễ phục là một biểu hiện của thói học đòi lối ăn mặc sang trọng của quý tộc nhưng lại bị bọn phó may lừa lọc và biến thành trò cười.
Vở kịch có hai cảnh, cảnh thứ nhất nhất là câu chuyện giữa ông Giuốc-đanh và bác phó may. Khi bác phó may mang đến bộ lễ phục theo nhu cầu của ông Giuốc- đanh – bộ lễ phục được coi là niềm quan tâm duy nhất của ông ta hiện nay, vì có nó mọi người sẽ biết ông là người giàu có, là quý tộc. Cuộc đối thoại của hai người được coi là chủ- tớ ấy chỉ xoay quanh bộ trang phục.
Đối thoại đầu tiên của hai nhân vật xung quanh chuyện bít tất với đôi giày.
Ở đây, ông Giuốc – đanh là người có lí, bởi cả hai thứ ông ta đều đi chật. Còn vì sao ông ta phải “khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được” (đối với tất) hay nó “làm tôi đau chân ghê gớm” (đối với đôi giày) chẳng qua là ở thói láu cá ăn bớt tiền của bác phó may (số nhỏ thì thường ít tiền hơn số đo lớn hơn), cũng như ở đoạn sau: may một bộ lễ phục cho khách mà bác ta cố tinh gạn đủ một cái áo cho mình.
Biết tỏng những mẹo vặt ấy, ông Giuốc – đanh dồn bác ta vào thế chân tường. Ăn vụng bị bắt quả tang, bác phó may là người đuối lí. Người xem hoàn toàn đồng cảm với ông Giuốc – đanh vì lúc này trí óc ông còn tỉnh táo. Vì tỉnh táo nên lí luận sắc sảo. Chẳng hạn khi bác phó may chống chế về đôi tất không xỏ vừa chân “Rồi nó dãn ra thì lại rộng quá ấy chứ”, ông Giuốc – đanh đốp vào mặt bác ngay “Phải, nếu tôi cứ làm đứt mãi các mắt thì sẽ rộng thật”. Còn với đôi giày đi chật, bác phó may không chịu, cho đó chí là tưởng tượng (“Ngài cứ tưởng tượng ra thế”), ông Giuốc – đanh có lẽ phải của ông: “Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!”. Cái đúng ở ông Giuốc – đanh có được là nhờ vào thực tế, lấy thực tế (là đôi chân của mình) làm thước đo, vì vậy mà phân biệt được phải trái rạch ròi. Khi không còn chỗ dựa ấy, hoặc lấy tưởng tượng làm chỗ dựa cho mình, ví như hình mẫu một nhà quý tộc trong cách ăn mặc ra sao, ông ta không còn sáng suốt nữa. Bị mù quáng và mê hoặc, ông Giuốc – đanh chỉ còn là một thứ hình nộm, một thứ con rối do người khác điều khiển giật dây. Nghệ thuật gây cười bắt đầu từ đó.
Ông Giuốc – đanh đã phát hiện hoa trên bộ lễ phục bị may ngược, đó là lỗi mà bất cứ ai cũng có thể phát hiện điều đó có nghĩa mặc dù đang rất nóng lòng xem sản phẩm của bác phó may mang đến nhưng ông Giuốc – đanh vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra lỗi.
Câu chống chế của bác phó may làm cho lão nửa tin nửa ngờ: “Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả”. Câu thứ nhất, lão chắc không tin, nhưng đến câu thứ hai thì lão đã có phần tin, vì tin mà lão chì cần hỏi lại bác phó may tinh khôn bằng một giọng của kẻ đáng thương đuối lí: “Những người quý phái mặc áo hoa ngược ư?”. Với người xem, luận điệu của bác phó may rõ ràng là lừa bịp (lễ phục không may màu đen, lại còn may hoa ngược), còn với ông Giuốc-đanh, ông thay đổi rất nhanh như người vồ được của. Hai tiếng “quý tộc” mà bác phó may “lý luận cùn” ấy đã làm đảo ngược tình thế. ông Giuốc – đanh không những không nóng giận mà rút ngay ý của mình lại, điều này chứng tỏ ông không những kém hiểu biết mà còn thích danh giá, sang trọng, học đòi theo lớp quý tộc nhưng thực chất không hiểu quý tộc ra sao. Chính vì muốn người ta gọi ông bằng hai tiếng “quý tộc” ấy mà ông vô tình bị bác phó may qua mặt, và coi đó là mốt.
Kịch tính chưa dừng lại ở đó. Ông Giuốc – đanh phát hiện bác phó may ăn bớt vải, nhưng lần này ông chỉ trích nhẹ nhàng hơn: Đành là đẹp, nhưng đáng lẽ đừng gạn vải áo của tôi mới phải. Trước sự phát hiện ấy, lần này bác phó may không lí luận, biện bạch nữa, bác đánh trống lảng và lờ đi chuyển sang việc “thử áo”. Đấy là cách dụ làm cho ông Giuốc – đanh quên đi việc ăn bớt vải nhanh chóng, hẳn là ông đã nóng lòng muốn mặc nó từ rất lâu. Ông nhanh chóng nhận lời: “Ừ! Đưa đây”. Câu nói biến ông Giuốc – đanh trở thành một tay mù quáng trước những sai phạm trên bộ trang phục và bác phó may lần nữa qua mặt rất nhẹ nhàng.
Nếu ở cảnh thứ nhất, sự lừa bịp đã thành công vì cái sự học đòi biến con người (ông Giuốc-đanh) thành một thứ mồi ngon của nó thì ở cảnh thứ hai, sự tâng bốc đã thắng lợi vì những danh tiếng hão huyền mà con người thường ước mơ, khao khát.
Khi ông Giuốc- đanh mặc xong lễ phục, tay thợ phụ có lẽ vừa buột miệng nhưng cũng vừa hiểu được tâm lý của bất cứ ai khoác trên mình bộ trang phục mới là thích khen, thợ phụ thứ nhất gọi ngay ông là “ông lớn”, điều này khiến ông ngỡ rằng mình đang mang một bộ đồ vô cùng sang trọng và nghiễm nhiên trở thành bề trên. Ông sung sướng, thỏa nguyện được tôn sưng nên đã lập tức thưởng tiền cho hai tiếng ông vừa nhận được.
Dường như cả bốn tay thợ phụ đã bắt được thóp của tên trưởng giả này, họ đã biến ông Giuốc- đanh thành một tay khờ khạo, tiếng “cụ lớn” vừa thốt ra ông đã thấy mở mặt hơn gấp nhiều lần: “ ồ ồ, cụ lớn, không phải một tiếng tầm thường” và tiền thưởng được vung ra một cách không tiếc rẻ. Tên thợ phụ thứ ba gọi ông là “cụ lớn” và lần này hắn cũng nhận được “thù lao” không kém. ông Giuốc – đanh luôn nghĩ đến túi tiền của mình, nhưng khi tay thợ phụ thứ tư đã nâng lên tận mây xanh, gọi là “đức ông” mặc dù ông nói riêng: “Nó như thế này là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền cho nó thôi”! nhưng ngày sau đó ông sẵn sàng thưởng tên thợ phụ và có lẽ sẽ mất cả túi tiền nếu nghe được hai tiếng “tướng công”. Màn kịch khép lại trong câu nói: “Của đáng tội, nếu nó tôn mình lên bậc tướng công, thì nó sẽ được cả túi tiền mất” lột tả tính chất trưởng giả, học đòi làm sang đến mê muội, mù quáng, không phân biệt được lời nói thực với lời nói đưa đẩy, nịnh nọt của ông Giuốc – đanh nhưng cũng là chi tiết đẩy vở kịch lên đến cao trào.
Hệ thống đại từ nhân xưng: ông lớn, cụ lớn, đức ông thường dùng với những nhà quý tộc đã được lạm phát ở đây, với người xem nó dùng để lừa người, lừa những kẻ trưởng giả như ông Giuốc-đanh ngu dốt hám danh. Ấy là còn chưa kê đến trình tự từ thấp đến cao của nó. Dù có là quý tộc hẳn hoi đi nữa thì làm sao có sự thăng cấp liên tục và chỉ trong phút chốc thế kia? Thế mà ông Giuốc-đanh có lần nào không vui, lần nào cũng như mở cờ trong bụng, và không lần nào giống lần nào. Hai lần trước ông ta say, say trước những từ ngữ đại ngôn hoa mĩ. Niềm vui của nhân vật lớn bé tuy có khác nhau, nhưng là niềm vui trọn vẹn, ông ta thoả mãn và có thể ngủ yên trong vòng tay của giấc mơ hạnh phúc tràn đầy. Nhưng đến lần thứ ba, ông ta có phần hồi tỉnh. Sự sáng suốt trở lại chăng? Nhưng đâm lao phải theo lao, vả lại tội gì mà kìm nén niềm sung sướng mà đâu phải lúc nào cũng có?
Tình huống kịch và diễn biến kịch dù chí qua hai cảnh diễn nhưng rất sinh động, luôn luôn phát triển. Từ đó mà nhân vật kịch được khắc hoạ tài tình. Nổi bật lên một tính cách rất đáng bị phê phán: thói học đòi làm sang của hạng người trưởng giả. Tính cách ấy biến con người thành một thứ trò hể mà chính con người – hể kia không tự biết. Dĩ nhiên, nhân vật của Mô-li-e chỉ là sản phẩm của một thời (thế kỉ XVII), của một nền văn chương (văn chương Pháp). Nhưng là một hình tượng nghệ thuật được xây dựng rất thành công như thế, cho đến ngày hôm nay, nó vẫn là một cảnh báo. Con người sẽ không còn là con người nếu bị nhiễm dộc về tinh thần. Sự biến chất, sự thoái hoá sẽ diễn ra như một thứ nguy cơ không thể nào tránh được.
Trải qua nhiều thế kỉ, nhưng sức phê phán hiện thực của vở kịch để lại vẫn còn giá trị đến bây giờ.
Theo Tapchivanhoc.com