Tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện nay vẫn lưu lại văn bia đề danh tiến sĩ khoa năm 1623. Đây là một khoa thi đặc biệt, độc nhất vô nhị, khi có một sĩ tử là Nguyễn Trật để giấy trắng nhưng vẫn được đề danh khắc bia đỗ tiến sĩ. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Nguyễn Trật sinh năm 1573, người làng Nguyệt Viên, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Tương truyền, ông là người cao lớn, khỏe mạnh, lại hiền lành, siêng năng. Vậy nhưng vì tối dạ nên dù đọc sách nhiều, Nguyễn Trật không nhớ nổi mấy trang. Sau một thời gian miệt mài, ông cũng phải bỏ cuộc, không còn màng đến sách vở nữa.
Trong sách “Tang thương ngẫu lục” kể lại rằng, có người thầy địa lý già thường hay đến làng Nguyệt Viên. Một hôm, ông đến nhà một nho sinh nổi tiếng học rộng, văn hay trong làng, nói rằng vì mến mộ tài học mà muốn tặng anh ta một miếng đất phát tiến sĩ. Thế nhưng nho sinh này cho rằng, mình học rộng, tài cao, thi chắc chắn sẽ đỗ nên không cần đất tốt làm gì. Sau đó, thầy địa lý già đến nhà Nguyễn Trật, thấy đây là người hiền lành, lễ độ nên có ý muốn tặng cho một huyệt quý. Nguyễn Trật kính cẩn tiếp thầy địa lý ở nhà mình đến mấy tháng và nhận miếng đất quý.
Nguyễn Trật lại tìm thầy học và chăm chú việc đèn sách, đến kỳ thi hương lúc đó ông đã 40 tuổi. Biết học trò của mình hiền lành, lễ độ nhưng tối dạ nên thầy giáo dặn các học trò khác khi vào trường thi thì nhớ tìm cách giúp đỡ Nguyễn Trật. Lúc bấy giờ nhà Lê Trung hưng vừa đánh bại nhà Mạc nên kinh thành Thăng Long còn rất lộn xộn, việc thi cử còn lỏng lẻo. Nhờ thế khi đi thi, Nguyễn Trật được bạn bè giúp đỡ mà đỗ hương cống và lọt vào kỳ thi hội.
Đến kỳ thi hội năm 1623, thời vua Lê Thần Tông, Nguyễn Trật về kinh dự thi. Nhờ bạn bè giúp đỡ nên ông vượt qua được trường nhất, trường nhì và trường ba. Đến trường tư thì bạn bè của Nguyễn Trật hầu như đã rơi rớt hết cả. Chẳng còn ai giúp Nguyễn Trật khi ông thi trường tư, cũng là kỳ thi cuối cùng của thi hội. Thời xưa, các thí sinh phải tự làm lều và đặt chõng để viết bài. Trong sách “Tang thương ngẫu lục” mô tả rằng: Đến trường tư, trước đó mấy ngày, bạn cùng trọ một nhà đều lo đi sắm sửa các thứ cần thiết để vào trường thi, ông ở nhà nằm ngủ, trong giấc chiêm bao, thấy có một vị thần kêu to lên rằng: Khương khương! Tỉnh dậy ông nghĩ: Hai chữ khương cùng âm (một chữ là họ hoặc tên người, một chữ là gừng), ta cứ thử mang theo gừng xem sao.
Hôm vào trường tư, ông mang theo gừng thật. Thế rồi chiều tối hôm ấy, ở lều bên cạnh có một thí sinh vật vã ôm bụng kêu đau, hỏi ra mới biết đó chính là viên nho sinh quê ở làng Bột Thái. Ông đem nước gừng đổ cho uống. Lát sau, người ấy lấy quyển thi của mình ra và nói: Đây là bài thi rất đắc ý của tôi nhưng chưa đề tên vào, nay xin tặng ông để đền ơn. Xin ông cõng tôi ra khỏi trường, tôi dầu có chết cũng chẳng ân hận gì nữa. Ông vâng lời, cõng viên nho sinh ra khỏi trường. Sau, viên nho sinh này lại phát bệnh mà mất.
Nguyễn Trật nhận bài thi của nho sinh này, nhưng vì bài thi làm chưa xong nên ông viết thêm phần cuối cho xong, ghi tên mình vào rồi nộp cho quan trường. Khi các quan chấm thi đến bài của Nguyễn Trật thì thấy làm rất hay, nhưng đến phần sau thì câu văn kém hẳn nhưng vẫn chấm trong 7 người đỗ đầu được vào thi đình. Có 3.000 sĩ tử lọt vào đến thi hội, chọn ra 7 người đỗ và vào đến thi đình.
Vào đến thi đình, Nguyễn Trật không sao làm bài được bèn bỏ giấy trắng nộp bài. Cho rằng Nguyễn Trật ngông nghênh nên nộp giấy trắng, triều đình rất tức giận. Theo lệ thì 7 người vào đến thi đình đều đậu hết, chỉ là phân định ra 1 người đỗ đầu và 6 người còn lại đỗ tiến sĩ theo thứ tự. Thế nhưng vì cho rằng, Nguyễn Trật ngông cuồng không chịu làm bài mà bỏ giấy trắng nên triều đình dự tính không treo bảng vàng cho ông đỗ.
Trong khi triều đình dự định xóa tên ông khỏi tất cả kỳ thi và cân nhắc hình thức xử phạt thì trong triều có biến, chúa Trịnh Tùng ốm nặng không qua khỏi liền trao quyền bính lại cho con cả là Trịnh Tráng. Một người con khác là Trịnh Xuân đem quân tranh giành quyền với anh mình, giao tranh khiến kinh thành hỗn loạn và trong lúc hỗn loạn, Nguyễn Trật có công lớn khi hộ giá nhà vua đến Thanh Hóa; vì thế việc trừng phạt được bỏ qua. Cuối cùng ông vẫn cho đỗ tiến sĩ.
Lời bàn:
Với Nguyễn Trật – nhân vật trong giai thoại này, có lẽ đây là thí sinh có một không hai trong lịch sử khoa cử thời phong kiến ở nước ta. Đi thi không làm được bài phải nộp giấy trắng, thế nhưng vẫn đỗ tiến sĩ thì quả là chuyện lạ đời. Và có lẽ nhờ biết mình, hiểu người nên tài năng có hạn nhưng Nguyễn Trật đã luôn làm tốt chức phận một cách mẫn cán theo kiểu cần cù bù thông minh. Vì thế, sau này ông được triều đình phong đến chức Công khoa Đô Cấp sự trung.
Dù tài năng có hạn, ông lại không có văn hay, chữ tốt như nhiều người đương thời nhưng với tính tình hiền lành, thương yêu dân chúng, làm quan rất thanh liêm, người dân yêu mến gọi ông là quan Nghè Nguyệt viên. Thế mới hay rằng, ở đâu và thời nào cũng vậy, nếu biết mình, biết người và biết thời, lại siêng năng, cần mẫn và thanh liêm thì sẽ được nhiều người nể trọng. Tiếc rằng thời nay không phải ai cũng biết điều này, thật đáng buồn thay!
Theo Tapchivanhoc.com