Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Trạng nguyên Vũ Kiệt là người xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc xưa (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông thi Đình đỗ trạng nguyên (tức Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh) khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ ba đời vua Lê Thánh Tông – năm 1472, khi ấy ông vừa tròn 20 tuổi.
Theo chế định của các triều đại phong kiến ngày xưa, sĩ tử thi đỗ cao trong kỳ thi Hương rồi mới được vào thi Hội và sau nữa là vào thi Đình. Thi Đình là kỳ thi đặc biệt để xếp hạng các tiến sĩ theo giáp đệ, kỳ thi này tổ chức ngay trong sân điện nhà vua, vì vậy gọi là thi Đình. Khác với thi Hội và thi Hương là thí sinh phải qua bốn kỳ, còn thi Đình chỉ thi một bài văn sách nên gọi là Đình đối sách văn. Bài văn sách thi Đình do vua trực tiếp ra đề và vua cũng trực tiếp phê duyệt, xếp hạng.
Để đạt cao trong kỳ thi Đình mà cao nhất là trạng nguyên, sĩ tử cần phải có vốn kiến thức và tài năng về Hán học, sử học và văn học (đó cũng là điều kiện để vượt qua hai kỳ thi Hương, thi Hội) mà còn đòi hỏi phải có sự hiểu biết tình hình của đất nước và vận dụng tri thức của mình để lý giải, để đề ra kế sách giải quyết những vấn đề của thực tế. Vũ Kiệt đã vượt qua kỳ thi Đình đối với bài văn sách dài hơn chục ngàn chữ, vượt xa mức quy định tối thiểu (là ba ngàn chữ). Và trong phạm vi bài văn, Vũ Kiệt đã đạt đến đỉnh cao nhất của khoa cử, thể hiện tài năng “kinh bang tế thế” của ông.
Trong bài văn sách của mình, Vũ Kiệt đã đề cập đến nhiều vấn đề lớn của xã hội mà đầu bài thi đặt ra. Trong phần nói về giáo dục, nhà vua đã hỏi: “Sách xưa có câu: “Thầy nghiêm thì việc học đạo mới được tôn kính”. Nhưng hiện tại nho sinh lại cảm thấy xấu hổ khi đến học thầy, cốt làm những chuyện họa may hoặc qua tuần, qua tháng lại đổi thầy. Một nho sinh mà chưa bao giờ biết gò mình trong việc tu chỉnh, khi đạt được danh vọng ở triều đình thì ít tuân theo lễ nghĩa. Đạo làm thầy bị bỏ rơi sao mà lâu thế, làm thế nào để cứu vãn được…”.
Và Vũ Kiệt đã viết rằng: “Thần nghe: Cái học của người xưa nhất thiết phải có thầy, người thầy làm nhiệm vụ truyền đạo, thụ nghiệp nêu lên những chỗ nhầm lẫn, giải thích những điều tôn nghi trong sách vở. Các ngành, các nghề, ngay cả những nghề vụn vặt cũng không thể không có thầy được, huống hồ người theo học đạo Nho?… Là kẻ sĩ phải thấy rằng mình được vinh hạnh, càng chăm lo việc thực học. Trong lúc chưa thành đạt thì sống theo đạo lý thông thường để chờ thời gặp mệnh. Không để mất phẩm chất riêng của mình. Lúc đã được tin dùng thì phải giữ đúng danh vị và làm việc thực sự, không thể để mất cái điều mà mình hằng mong muốn, như thế mới có thể được”.
Và Vũ Kiệt cũng nêu những tồn tại của giáo dục lúc bấy giờ cả phía thầy dạy và học trò: Nhưng cũng có khá nhiều người làm thầy, tư chất kém cỏi, văn vẻ vụng về. Cái mà người học trò cần có là sự uyên bác nhưng người thầy lại có kẻ nông xoàng, tài cán thô thiển. Đạo làm thầy không vững như thế thì còn lạ gì khi thấy sĩ tử xấu hổ việc đi học?… Tâm thật đã mất trước khi ra làm quan rồi, thì sau khi ra làm quan còn tìm sao được tiết tháo và phong độ của họ…
Vũ Kiệt cũng vạch ra hướng để khắc phục những tồn tại ấy: Thần mong bệ hạ: Đạo làm thầy phải được tuyển chọn kỹ càng. Việc nuôi dạy sĩ tử phải được nghiêm nghị đúng hướng….Tìm nhân tài trước hết phải chú ý đến mặt đức hạnh, phế truất kẻ phù hoa…Nếu như dùng lời gian dối để trau truốt thì dứt khoát không dùng. Người dám nói thẳng… thì có thể thu nhận…
Lời bàn:
Trạng nguyên Vũ Kiệt được ca ngợi là “bậc thiên tài kiệt xuất, đức độ vẹn toàn”, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Và chỉ riêng với bài văn sách thi Đình cũng đã là quá đủ để tên tuổi và sự nghiệp của ông được lưu truyền mãi mãi. Bởi bài văn này là một kiệt tác nói về sách lược để trị nước, an dân, đặc biệt là về lĩnh vực giáo dục đào tạo và sử dụng nhân tài. Trong đó, ông đã chỉ ra điểm yếu của nền giáo dục đào tạo thời đó là vì “Thầy không nghiêm nên việc học chẳng được tôn kính” hoặc đối với sĩ tử thì “Tâm thuật đã mất trước nên khi ra làm quan sao còn có được cái tiết tháo và phong độ” hay “Cái thói quen đã bị kẻ sĩ buông trôi nên khi đạt được danh vị trong triều thì ít người chịu theo lễ nghĩa”,…Và ông đã đưa ra kiến nghị với nhà vua rằng: Thần mong bệ hạ hãy tuyển chọn những người công minh, trong sạch và ngay thẳng, lấy danh vị trao cho trọng trách.
Quan điểm trên của Trạng nguyên Vũ Kiệt cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị ở chỗ: Muốn quan lại có tư cách, phẩm chất thì phải chú ý ngay từ khi họ còn là học trò…, phải biết sử dụng người có đức, có tài và trao cho họ trọng trách xứng đáng… Cách đây 543 năm mà một thí sinh mới 20 tuổi đã viết ra những điều này thì quả là người tài cao đức trọng. Tiếc rằng hậu thế thời nay không phải ở đâu và những người có trách nhiệm không phải ai ai cũng có được suy nghĩ và việc làm như tiền nhân. Bởi thế trong xã hội mới có chuyện chạy bằng cấp, chạy chức, chạy án… và vì thế mới có không ít người ngồi nhầm nghế…
Theo Tapchivanhoc.com